Bất ngờ nhiều người vẫn đang chọn giữ tiền tiết kiệm tại nhà
Theo chuyên gia, không phải chỉ là câu chuyện về lãi suất, ngân hàng cần tập trung xây dựng và củng cố niềm tin của khách hàng thông qua tư vấn tài chính toàn diện và bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời sử dụng giáo dục tài chính như một công cụ thu hút và giữ chân khách hàng gửi tiền.

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 7, tiền gửi dân cư tại các tổ chức tín dụng đã vượt 7,748 triệu tỷ đồng, tăng gần 9,7% so với đầu năm – mức cao nhất từ trước đến nay. Những con số này không chỉ phản ánh niềm tin của người dân vào sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng, mà còn cho thấy tiền gửi ngân hàng vẫn là kênh trú ẩn an toàn được người Việt ưa chuộng.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát được công bố gần đây cho thấy thực tế các sản phẩm tài chính, đơn cử như sản phẩm hết sức phổ biến là tiền gửi vẫn chưa tiếp cận đến một số người dân.
Khi khảo sát gần 59.000 hộ gia đình với hơn 152.000 thành viên từ 15 tuổi trở lên, có tới 47% tiết kiệm theo hình thức giữ tại nhà, 20% không biết đến hình thức tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Hầu hết người dân ưu tiên hình thức gửi tiền truyền thống, trong khi tỷ trọng tiết kiệm đầu tư vào chứng khoán hoặc quỹ hưu trí còn thấp.

(Theo kết quả khảo sát gần 59.000 hộ gia đình với hơn 152.000 thành viên từ 15 tuổi trở lên, tính đến quý III/2024, do PGS.TS. Chu Khánh Lân - Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) công bố tại tọa đàm "Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số" do Thời báo Ngân hàng tổ chức vào ngày 30/10/2025).
Điều này chứng tỏ thị trường vẫn còn nhiều dư địa để các ngân hàng mở rộng tệp khách hàng tiết kiệm, nhất là ở nhóm dân cư chưa tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức. Để khai thác hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi này, các ngân hàng thương mại hiện nay đang triển khai nhiều biện pháp thu hút khách gửi tiền. Song song với việc cải thiện lãi suất huy động, các ngân hàng đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng.
Bên cạnh các kỳ hạn truyền thống, nhiều sản phẩm mới được triển khai như tiết kiệm linh hoạt, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm giáo dục… với cơ chế rút trước hạn, tái tục tự động hoặc liên kết với các dịch vụ tài chính khác như bảo hiểm, đầu tư. Ngoài ra, với sự phát triển của công nghệ, khách hàng giờ đây có thể mở sổ tiết kiệm điện tử, gửi và tất toán trực tuyến 24/7 ngay trên ứng dụng ngân hàng mà không cần đến quầy giao dịch. Nhờ vậy, các ngân hàng đã tiếp cận hiệu quả hơn nhóm khách hàng ở khu vực nông thôn, vùng sâu xa hoặc những người trẻ quen với giao dịch số.
Một số ngân hàng còn ứng dụng AI, Machine Learning để phân tích hành vi tài chính của khách hàng, từ đó gợi ý sản phẩm tiết kiệm hoặc đầu tư phù hợp hơn với từng người dùng. Ngoài ra, việc gia tăng tiện ích đi kèm như các chương trình tặng quà, quay số trúng thưởng, cộng điểm thưởng,...cũng góp phần tạo thêm động lực gửi tiền và giúp gia tăng sự gắn bó của khách hàng.
Cuối cùng, xây dựng niềm tin và uy tín thương hiệu vẫn là yếu tố then chốt trong việc duy trì nguồn tiền gửi ổn định. Các ngân hàng hiện ngày càng chú trọng cải thiện quy trình dịch vụ, tăng cường minh bạch thông tin, đầu tư công nghệ bảo mật và nâng cao chất lượng chăm sóc khách hàng.
Ông Christian Grajek - Trưởng điều phối khu vực Châu Á, Quỹ Hợp tác quốc tế các Ngân hàng Tiết kiệm Đức (DSIK) cho biết: “Không phải chỉ là câu chuyện về lãi suất, ngân hàng cần tập trung xây dựng và củng cố niềm tin của khách hàng thông qua tư vấn tài chính toàn diện và bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời sử dụng giáo dục tài chính như một công cụ thu hút và giữ chân khách hàng”. PGS.TS. Chu Khánh Lân cũng nhấn mạnh, với khoảng 20% người còn chưa hiểu biết về các kênh gửi tiền, cho thấy ngân hàng, cơ quan quản lý cần chú trọng hơn đến nhóm người yếu thế này, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số.
Xây dựng văn hoá tiết kiệm tại Việt Nam
Theo PGS.TS Lê Thanh Tâm (Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân), tiết kiệm trong bối cảnh hiện nay không nên được hiểu đơn giản là “thắt lưng buộc bụng”, mà là một dạng kỷ luật tài chính – biết tích lũy có mục tiêu, tiêu dùng có chọn lọc và ưu tiên sử dụng nguồn lực cho dài hạn thay vì tiêu dùng ngắn hạn. Bà cho rằng, văn hóa tiết kiệm không chỉ là hành vi cá nhân, mà cần được nhìn nhận như “hạ tầng mềm” của nền kinh tế, được lồng ghép vào chiến lược và chính sách tài chính quốc gia để khuyến khích tích lũy và đầu tư bền vững.
“Chuyển đổi số không làm cho văn hóa tiết kiệm trở nên lỗi thời – ngược lại, nó khiến việc tiết kiệm trở nên hiệu quả, minh bạch và có chiến lược hơn,” PGS.TS Lê Thanh Tâm nhấn mạnh. Theo bà, để hình thành một văn hóa tiết kiệm bền vững trong kỷ nguyên số, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, phát triển hạ tầng tài chính số khuyến khích tiết kiệm tự động, tiết kiệm có mục tiêu cụ thể, tiết kiệm bắt buộc. Thứ hai, đưa giáo dục tài chính số vào chương trình bắt buộc, đồng thời đảm bảo minh bạch chi phí vay và chỉ số sức khỏe tài chính cá nhân theo thời gian thực. Thứ ba, xây dựng cơ chế tín dụng ưu tiên cho những cá nhân, tổ chức có kỷ luật tích lũy tốt – tức là biết sử dụng vốn cho đầu tư sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh thay vì phục vụ tiêu dùng ngắn hạn. Cuối cùng là xây dựng và củng cố niềm tin vào các tổ chức tín dụng, thông qua quản trị minh bạch và bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Ở góc nhìn quốc tế, ông Christian Grajek cho rằng giáo dục tài chính sớm là nền tảng hình thành thói quen tiết kiệm bền vững. Ông đề xuất Việt Nam cần chuyển từ các chiến dịch tuyên truyền ngắn hạn sang chiến lược dài hơi, giúp tiết kiệm trở thành một phần trong nếp sống thường ngày.
Ông Grajek cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của một hệ sinh thái tài chính bền vững, trong đó Chính phủ, ngân hàng, ngành giáo dục và các tổ chức xã hội cùng phối hợp. Chính phủ định hướng và bảo vệ người gửi tiền, ngân hàng thiết kế sản phẩm phù hợp và tăng cường giáo dục tài chính, còn ngành giáo dục đào tạo kiến thức tài chính như kỹ năng sống cơ bản.
Linh San