CPI tháng 9 tăng 0,42% so với tháng 8, 10 nhóm hàng tăng giá, chỉ có 1 nhóm giảm
Cục Thống kê - Bộ tài chính vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ tháng 9, quý 3 và 9 tháng năm 2025.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Chín tăng 0,42% so với tháng trước do dịch vụ giáo dục các trường ngoài công lập, giá thực phẩm và vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng. CPI tháng Chín tăng 2,61% so với tháng 12/2024; tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân quý III/2025 tăng 3,27% so với quý III/2024.
Bình quân chín tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,19%.
Trong mức tăng 0,42% của CPI tháng Chín so với tháng trước, có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, riêng chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm.
Mười nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
– Nhóm giáo dục tăng 2,22%, trong đó giá dịch vụ giáo dục tăng 2,43% do một số trường đại học, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương điều chỉnh tăng mức học phí năm học 2025-2026, các trường công lập được miễn, giảm và hỗ trợ học phí theo Nghị định số 238/2025/NĐ-CP ngày 3/9/2025 của Chính phủ. Bên cạnh đó, giá các mặt hàng văn phòng phẩm tăng như: Bút viết các loại tăng 0,88%; sản phẩm từ giấy tăng 0,81%; sách giáo khoa tăng 0,40%; văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,49%.
– Nhóm giao thông tăng 0,58% (tác động làm tăng CPI chung 0,06 điểm phần trăm). Trong đó, chỉ số giá xăng tăng 1,85%; dầu diesel tăng 0,71% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong tháng. Thêm vào đó, giá xe ô tô đã qua sử dụng tăng 0,15%; phụ tùng ô tô tăng 0,18%; bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,10%. Ở chiều ngược lại, một số nhóm hàng có chỉ số giá giảm so với tháng trước: Giá vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 10,98%; vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 9,28% do các đơn vị vận tải đã chủ động tăng chuyến, giảm giá vé sau dịp nghỉ hè. Phí cầu đường giảm 0,11%; giá xe ô tô mới giảm 0,07%; xe máy giảm 0,03% do nhu cầu tiêu dùng giảm.
– Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,41% (làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm), trong đó: Thực phẩm tăng 0,49% (tác động làm CPI chung tăng 0,11 điểm phần trăm); lương thực giảm nhẹ 0,01%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,39%.
– Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,41% chủ yếu do các nguyên nhân sau: Giá thuê nhà tăng 0,28% do nhu cầu thuê nhà tăng tại một số địa phương khi bước vào năm học mới; giá điện sinh hoạt tăng 0,30%; giá nước sinh hoạt tăng 0,27% do thời tiết nắng nóng làm nhu cầu tiêu dùng tăng; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,52% do giá gạch, cát, đá tăng cao khi nguồn cung khan hiếm, chi phí sản xuất như than, điện và vận chuyển tăng trong khi nhu cầu xây dựng cao; giá gas tăng 0,35% do từ ngày 01/9/2025, giá gas trong nước điều chỉnh tăng theo giá gas thế giới; giá dầu hỏa tăng 0,67% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.
– Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22% chủ yếu ở một số mặt hàng như: Giá đồ trang sức tăng 5,92% theo xu hướng giá vàng; dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 0,33%; đồng hồ đeo tay tăng 0,12%; sửa chữa đồng hồ đeo tay, sửa chữa đồ trang sức tăng 0,06%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,39%; dịch vụ cắt tóc, gội đầu tăng 0,22%; dịch vụ về hiếu, hỷ tăng 0,13%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,01%. Riêng nhóm hàng chăm sóc cơ thể như nước hoa, son môi, kem dưỡng da giảm 0,16%.
– Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,12% do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp hè, Lễ Vu Lan và chi phí sản xuất tăng. Trong đó, giá nước quả ép tăng 0,43%; nước uống tăng lực đóng chai, lon, hộp tăng 0,29%; rượu các loại tăng 0,20%; nước khoáng tăng 0,14%; thuốc hút tăng 0,10%; bia các loại tăng 0,08%.
– Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%, trong đó, giá bàn là điện tăng 1,48%; bếp gas tăng 0,39%; hàng thủy tinh, sành, sứ tăng 0,25%; dịch vụ trong gia đình tăng 0,22%; xà phòng, chất tẩy rửa tăng 0,21%; đồng hồ treo tường, để bàn, gương và giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 0,20%; vật phẩm tiêu dùng khác tăng 0,15%; sửa chữa thiết bị trong gia đình tăng 0,05%. Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng điện tử, điện lạnh giảm giá do nhiều cửa hàng, siêu thị tiếp tục áp dụng các chương trình khuyến mại kích cầu mua sắm như: Giá ấm, phích nước điện giảm 0,52%; quạt điện giảm 0,26%; máy giặt giảm 0,24%; máy điều hòa nhiệt độ giảm 0,14%; tủ lạnh giảm 0,13%; máy hút bụi giảm 0,11%.
– Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,07% do chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm tăng khi vào năm học mới. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,21%; dịch vụ may mặc tăng 0,19%; mũ nón tăng 0,15%; may mặc khác tăng 0,12%; giày dép và dịch vụ giày, dép cùng tăng 0,08%; quần áo may sẵn tăng 0,05%.
– Nhóm bưu chính, viễn thông tăng 0,04%, trong đó, giá phụ kiện máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng tăng 0,67%; điện thoại cố định tăng 0,44%; sửa chữa điện thoại tăng 0,31%; điện thoại di động thông thường tăng 0,15%. Ngược lại, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,06% do chính sách giảm giá, kích cầu tại một số cửa hàng đối với những sản phẩm đã tung ra thị trường một thời gian.
– Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,03% do tỷ giá tăng làm chi phí nhập khẩu dược phẩm và các nguyên phụ liệu tăng. Bên cạnh đó, do thời tiết giao mùa nên nhu cầu tiêu dùng các loại thuốc về giảm đau, hạ sốt, đường hô hấp, vitamin và khoáng chất của người dân tăng. Trong đó, thuốc giảm đau, hạ sốt chống viêm không steroid và thuốc điều trị gút và các bệnh xương tăng 0,29%; thuốc chống dị ứng và các trường hợp quá mẫn tăng 0,21%; thuốc tim mạch tăng 0,11%; thuốc chống nhiễm, điều trị ký sinh trùng tăng 0,10%; nhóm vitamin và khoáng chất tăng 0,07%; dụng cụ y tế tăng 0,02%.
Riêng chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,13%, trong đó du lịch trọn gói giảm 0,78% do các công ty du lịch triển khai chương trình khuyến mại giảm giá để kích cầu tiêu dùng. Ở chiều ngược lại, giá chụp, in tráng ảnh tăng 0,59%; sách, báo, tạp chí các loại tăng 0,46%; hoa, cây cảnh tăng 0,36%; đồ chơi tăng 0,15%; khách sạn, nhà khách tăng 0,02%.
CPI bình quân quý III/2025 tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,69%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,98%; giáo dục tăng 3,13%; hàng hóa và dịch khác tăng 2,93%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,52%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,28%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,78%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,71%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,42%; bưu chính, viễn thông giảm 0,53%; giao thông giảm 1,42%;
Lạm phát cơ bản tháng Chín tăng 0,20% so với tháng trước và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân chín tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,27% của CPI bình quân chung, nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 29/9/2025, bình quân giá vàng thế giới ở mức 3.688,38 USD/ounce, tăng 7,90% so với tháng trước. Ngày 17/9/2025, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) giảm lãi suất điều hành xuống 4%-4,25% khiến đồng USD suy yếu, lợi suất trái phiếu giảm, qua đó làm gia tăng sức hấp dẫn của vàng đẩy giá vàng thế giới lên cao. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại kéo dài, rủi ro địa chính trị gia tăng cùng kỳ vọng lạm phát vẫn hiện hữu đã thúc đẩy nhu cầu nắm giữ vàng như tài sản trú ẩn an toàn. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 6,53% so với tháng trước; tăng 55,4% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 45,42% so với tháng 12/2024; bình quân chín tháng năm 2025 tăng 41,86% so với cùng kỳ năm trước.
Giá đô la Mỹ trong nước diễn biến ngược chiều với giá thế giới. Tính đến ngày 29/9/2025, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 97,48 điểm, giảm 0,65% so với tháng trước chủ yếu do FED cắt giảm lãi suất làm đồng đô la Mỹ mất sức hấp dẫn so với các đồng tiền chủ chốt khác. Trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng Chín tăng 0,30% so với tháng trước do nhu cầu ngoại tệ tăng phục vụ nhu cầu nhập khẩu hàng hóa và yếu tố tâm lý giữ đồng tiền này của người dân trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nới lỏng chính sách tiền tệ; tăng 6,64% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 3,98% so với tháng 12/2024; bình quân chín tháng năm 2025 tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.
Minh Quân