Độc lạ du lịch kiểu mới “vừa nghỉ dưỡng, vừa làm răng”: Thái Lan đang ‘hốt’ hàng triệu USD, Việt Nam vẫn loay hoay với phòng khám nhỏ

Du lịch nha khoa đang trở thành "mỏ vàng" mới mà Việt Nam có thể hướng tới để tăng chi tiêu khách du lịch.

Độc lạ du lịch kiểu mới “vừa nghỉ dưỡng, vừa làm răng”: Thái Lan đang ‘hốt’ hàng triệu USD, Việt Nam vẫn loay hoay với phòng khám nhỏ- Ảnh 1.

Trong khuôn khổ Tọa đàm “Phục hình ứng dụng vật liệu sinh học - Xu hướng tất yếu của nha khoa hiện đại. Zirconia Veneer: Bước tiến công nghệ đẹp chuẩn y khoa, bền vững từ gốc” do công ty Detec tổ chức, các chuyên gia đầu ngành đã cùng phân tích về tiềm năng kinh tế ngành nha khoa Việt Nam.

Tại Tọa đàm, Thầy thuốc Nhân dân, PGS.TS Lương Ngọc Khuê - Phó Chủ tịch Hội Răng Hàm Mặt Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Y khoa Quốc gia - nhấn mạnh vai trò của Đề án 5628 “Nâng cao năng lực khám chữa bệnh Răng Hàm Mặt và dự phòng bệnh răng miệng cộng đồng giai đoạn 2021 - 2030”.

Ông cho biết định hướng của đề án là xây dựng hệ thống khám chữa bệnh đồng bộ, tăng cường liên kết công tư, và phát triển dịch vụ y khoa hướng đến kiều bào và khách du lịch. Bởi nhu cầu chăm sóc răng miệng hiện nay không chỉ dừng ở điều trị bệnh lý mà còn bao gồm thẩm mỹ, cá nhân hóa theo từng giai đoạn cuộc đời từ bào thai, răng sữa, nha chu cho đến răng người cao tuổi. 

PGS.TS Lương Ngọc Khuê cũng nhấn mạnh, ngành nha khoa Việt Nam đang bước vào giai đoạn định hình lại vai trò từ một chuyên ngành kỹ thuật sang một ngành kinh tế sức khỏe có giá trị chiến lược. Không dừng lại ở việc phục vụ người dân trong nước, nha khoa Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành một ngành “xuất khẩu dịch vụ” thông qua du lịch y khoa.

Với lợi thế chi phí cạnh tranh, đội ngũ tay nghề cao và sự đầu tư mạnh mẽ từ khu vực tư nhân, Việt Nam hoàn toàn có thể định vị là điểm đến đáng tin cậy cho khách quốc tế có nhu cầu phục hình thẩm mỹ nha khoa.

Thực tế, dịch vụ du lịch nha khoa toàn cầu đang trên đà phát triển mạnh mẽ, với nhiều động lực thúc đẩy quan trọng. Quy mô thị trường du lịch nha khoa toàn cầu dự báo sẽ tăng lên khoảng 43,9 tỷ USD vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) khoảng 22%, theo dữ liệu tổng hợp từ Grand View Research và Credence Research.

Trong đó, Châu Á – Thái Bình Dương áp đảo thị trường, chiếm từ 45% đến hơn 50% doanh thu toàn cầu. Các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia nổi bật với chi phí thấp, chất lượng cao và du lịch phát triển mạnh.

Thị trường nha khoa ở Thái Lan dự kiến tăng từ khoảng 777 triệu USD năm 2023 lên 3,24 tỷ USD năm 2030. Trung Quốc dự kiến từ 763 triệu USD (2023) đến 3,24 tỷ USD (2030). Tốc độ tăng trưởng dịch vụ du lịch nha khoa của 2 nước này ước đạt hơn 22%.

Châu Âu sở hữu khoảng 30% thị phần, trong đó Hungary, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ được biết đến như “thủ đô nha khoa” với dịch vụ chất lượng và giá cạnh tranh.

Châu Mỹ Latin (như Mexico, Costa Rica) chiếm khoảng 10%, nổi bật nhờ gần gũi với Mỹ và chi phí tiết kiệm. Trung Đông và châu Phi chiếm phần nhỏ (khoảng 5%), nhưng Dubai đang nổi lên với cơ sở hạ tầng cao cấp, thu hút đầu tư quốc tế.

Cũng theo các báo cáo, việc dân số già gia tăng đồng nghĩa nhu cầu phục hình như cấy ghép răng ngày càng cao. Nhưng chi phí điều trị cao và thời gian chờ ở các nước phát triển khiến người tiêu dùng tìm đến lựa chọn rẻ hơn ở nước ngoài. Cùng với hiệu ứng mạng xã hội và du lịch kết hợp nha khoa, hình thành các gói vừa làm đẹp vừa du lịch. Điều này thúc đẩy ngành “công nghiệp xuất khẩu nụ cười” ngày càng phát triển.

Độc lạ du lịch kiểu mới “vừa nghỉ dưỡng, vừa làm răng”: Thái Lan đang ‘hốt’ hàng triệu USD, Việt Nam vẫn loay hoay với phòng khám nhỏ- Ảnh 2.

Chuyên gia cho rằng ở Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nha khoa.

Tuy vậy ở Việt Nam, để thúc đẩy du lịch nha khoa, theo ông Khuê, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành y tế, du lịch, ngoại giao và truyền thông, cùng chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia một cách bài bản, nhất quán.

“Yếu tố cốt lõi định hình sự thay đổi của ngành phục hình răng Việt Nam trong thời gian tới chính là việc chuẩn hóa quy trình theo tiêu chuẩn quốc tế từ sản xuất, theo dõi ca bệnh, cập nhật tiêu chí, tích lũy bằng chứng khoa học đến cải tiến để phổ cập với giá thành hợp lý. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất, bác sĩ và thị trường, cùng định hướng chiến lược kinh doanh vì cộng đồng, trước khi mở rộng và phổ biến lâu dài", PGS.TS Lương Ngọc Khuê chia sẻ.

Theo TS.BS Phạm Thanh Hà Phó Giám đốc phụ trách chuyên môn Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, ngành phục hình răng thẩm mỹ Việt Nam những năm gần đây đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, tiếp cận nhiều công nghệ và vật liệu mới. Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn còn thiếu tính đồng đều, chưa tạo ra một chuẩn mực chung đủ mạnh để làm nền tảng hội nhập.

Cụ thể, chất lượng dịch vụ đang có sự phân hóa lớn giữa các cơ sở. Một số phòng khám đã tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế, nhưng phần đông đơn vị vẫn hoạt động thủ công, thiếu hệ thống kiểm soát chất lượng xuyên suốt từ khâu khám, chẩn đoán đến phục hình và chăm sóc hậu điều trị.

Theo vị này việc chuẩn hóa là yêu cầu tiên quyết để bảo đảm tính đồng nhất, an toàn và hiệu quả trong mọi quy trình điều trị nha khoa từ chẩn đoán đến phục hình và chăm sóc hậu điều trị.

“Cần xây dựng một hệ thống điều trị có tiêu chuẩn rõ ràng, kiểm soát chất lượng xuyên suốt và có khả năng đánh giá hiệu quả dựa trên bằng chứng khoa học không chỉ giúp ngành phát triển vững chắc mà còn tạo nền móng để hội nhập quốc tế, từ cấp độ khu vực đến toàn cầu”, TS.BS Phạm Thanh Hà nhấn mạnh.

Phan Trang

An ninh Tiền tệ - Tạp chí Người Đưa Tin Pháp luật

MỚI CẬP NHẬT