Luật sư Nguyễn An Bình: Hộ kinh doanh đừng nghĩ nhận tiền mặt, chia nhỏ doanh thu là có thể 'né' thuế, cơ quan chức năng có đủ công cụ để truy vết dòng tiền và xác định chủ thể thực sự
Theo luật sư Nguyễn An Bình, việc tìm cách 'lách luật', 'né' thuế có thể khiến hộ kinh doanh, cá nhân đối diện với mức phạt hành chính, thậm chí hình sự.

Nghị định 70/2023/NĐ-CP quy định các hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên phải sử dụng hóa đơn điện tử có kết nối với cơ quan thuế. Quy định này nhằm tăng cường minh bạch doanh thu, chống thất thu thuế và thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý thuế. Nghị định sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, áp dụng rộng rãi cho cả hộ kinh doanh truyền thống và trên nền tảng số.
Thời điểm Nghị định 70 chính thức có hiệu lực đang đến gần, nhưng không ít hộ kinh doanh vẫn loay hoay trong câu hỏi: "Phải làm gì để không vi phạm luật thuế?". Từ chối chuyển khoản, không xuất hóa đơn, chia nhỏ doanh thu... là những chiêu thức "né" thuế phổ biến, song cũng đầy rủi ro pháp lý.
Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn An Bình – Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn An Bình và cộng sự - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, về vấn đề này.
PV: Thưa luật sư, theo Nghị định 70, các hộ kinh doanh doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm phải sử dụng hóa đơn điện tử có kết nối với cơ quan thuế. Nếu hộ kinh doanh chỉ nhận tiền mặt, không xuất hóa đơn, thì hành vi này có vi phạm pháp luật không? Mức xử phạt hiện hành là gì?
Luật sư Nguyễn An Bình: Hộ kinh doanh có hành vi treo biển "chỉ nhận tiền mặt" hoặc ghi nội dung chuyển khoản không rõ ràng, sai lệch bản chất nhằm che dấu doanh thu, ví dụ như "trả tiền vay", "tiền nước", "tiền sinh nhật"…, để cơ quan chức năng gặp khó khăn khi xác định doanh thu điều này không làm giảm nghĩa vụ thuế, mà ngược lại có thể cấu thành hành vi che giấu doanh thu, vi phạm quy định pháp luật thuế và có thể bị xử lý theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp người nộp thuế cố tình che giấu doanh thu, hành vi không xuất hóa đơn khi bán hàng, căn cứ khoản 5 Điều 24 Nghị định 125/2020/NĐ – CP có thể bị xử phạt hành chính lên tới 10.000.000 đồng đến 20.000.000 triệu đồng. Sau khi bị phát hiện, phần doanh thu bị che giấu sẽ bị truy thu thuế, cộng thêm lãi chậm nộp 0.03% mỗi ngày và có thể bị áp dụng mức phạt 20% trên số thuế khai sai.
Nếu số thuế bị trốn vượt 100 triệu đồng hoặc dù dưới ngưỡng này nhưng vi phạm nhiều lần thì người vi phạm có thể bị xử lý hình sự.
Vậy luật hiện hành có đủ chế tài để kiểm soát và xử lý "né" thuế bằng cách không chấp nhận chuyển khoản không, thưa luật sư?
Luật sư Nguyễn An Bình: Hiện nay có không ít những người nộp thuế vẫn giữ quan niệm rằng nếu hạn chế sử dụng hình thức chuyển khoản và chỉ giao dịch bằng tiền mặt thì sẽ tránh được sự kiểm tra, giám sát từ phía cơ quan thuế. Tuy nhiên, đây là cách nghĩ phiến diện và chủ quan, không phù hợp với thực tế hoạt động nghiệp vụ hiện nay của ngành thuế.
Với các công cụ và phương pháp nghiệp vụ ngày càng hiện đại và đồng bộ, cơ quan thuế hoàn toàn có khả năng xác minh được doanh thu thực tế của người bán, bất kể giao dịch được thực hiện qua hình thức nào. Cụ thể, dòng tiền chuyển vào các tài khoản ngân hàng, số lượng và giá trị giao dịch phát sinh, cũng như dữ liệu về hàng hóa, nguyên liệu đầu vào... đều là những nguồn thông tin quan trọng giúp cơ quan chức năng có thể đối chiếu và đánh giá chính xác mức độ doanh thu cũng như thu nhập thực tế của cơ sở kinh doanh. Ngay cả những cơ sở kinh doanh treo biển "chỉ nhận tiền mặt" cũng khó có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan thuế.
Việc hộ kinh từ chối nhận chuyển khoản nhằm che giấu doanh thu để trốn thuế không phải là chuyện dễ dàng. Trên thực tế, Cơ quan thuế đã xử lý và phát hiện nhiều trường hợp cố tình giấu doanh thu để lẩn tránh nghĩa vụ thuế và nhiều trường hợp nghiêm trọng đã bị khởi tố hình sự.

Có tình trạng một số hộ kinh doanh cố tình chia nhỏ doanh thu để né ngưỡng 1 tỷ đồng/năm, hoặc đứng tên nhiều cá nhân khác nhau để không bị áp dụng quy định. Pháp luật hiện hành có cơ chế nào để phát hiện và xử lý hành vi này hay không?
Luật sư Nguyễn An Bình: Thực tế đúng là vẫn có một số hộ kinh doanh tìm cách lách luật bằng việc cố tình chia nhỏ doanh thu hoặc đứng tên nhiều cá nhân, sử dụng nhiều tài khoản ngân hàng khách nhau, không đăng ký với cơ quan thuế để phân tán dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, hiện nay cũng không còn là "vùng trống" để lách luật. Cơ quan thuế giờ đây có rất nhiều công cụ để kiểm tra và đối chiếu. Ví dụ dữ liệu từ ngân hàng, Bộ Công an, Bộ Công Thương, các sàn thương mại điện tử và đơn vị vận chuyển... đều được kết nối để kiểm tra. Với việc thu tiền mặt qua hình thức COD (thu hộ), thông tin từ các đơn vị vận chuyển sẽ được khai thác kịp thời và liên tục. Nếu ai sử dụng tài khoản người khác, Cơ quan thuế vẫn có biện pháp giám sát.
Nếu ai đó nghĩ rằng đứng tên người khác hay dùng tài khoản ngân hàng không đăng ký là có thể "ẩn mình" thì có thể sẽ phải suy nghĩ lại. Bởi với hệ thống định danh điện tử và cơ sở dữ liệu thuế đang ngày càng hoàn thiện, việc truy vết dòng tiền và xác định chủ thể thực sự là hoàn toàn khả thi.
Từ ngày 1/7/2025, quy định bắt buộc sử dụng mã số định danh cá nhân thay thế cho mã số thuế sẽ được áp dụng cho cá nhân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp.
Nói cách khác, nền tảng công nghệ hiện nay đang tạo điều kiện để cơ quan thuế có thể rà soát, kiểm tra và đánh giá nghĩa vụ thuế một cách rất đầy đủ và minh bạch. Cho nên, thay vì tìm cách né tránh, tốt hơn hết là các hộ kinh doanh nên tuân thủ nghiêm túc quy định – vừa là để tránh rủi ro về sau, vừa là góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch hơn.
Theo ông, việc bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có khả thi với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ (quán ăn, tiệm tạp hóa, tiệm tóc…) không, xét về chi phí đầu tư thiết bị và hiểu biết công nghệ?
Luật sư Nguyễn An Bình: Phải nói thật là với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ – như quán ăn, tiệm tạp hóa, tiệm tóc… – thì khi nghe đến "hóa đơn điện tử từ máy tính tiền", nhiều người sẽ cảm thấy lo lắng, nhất là về chi phí đầu tư thiết bị và kiến thức công nghệ. Đây là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt từ cơ quan thuế và sự vào cuộc rất sát sao của các chi cục thuế địa phương, tôi cho rằng mục tiêu triển khai rộng rãi là hoàn toàn khả thi. Quan trọng là cách làm phải linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng, và không gây áp lực quá lớn lên người kinh doanh.
Hiện nay, ngành thuế cũng đã có kế hoạch cụ thể để hỗ trợ. Với những hộ chưa có điều kiện về hạ tầng công nghệ hoặc chưa sẵn sàng, cơ quan thuế sẽ phối hợp cùng các đơn vị công nghệ như MobiFone, Viettel, MISA… để đưa ra các giải pháp phù hợp – từ phần mềm miễn phí cho đến thiết bị giá rẻ. Các gói giải pháp này chủ yếu hướng đến hộ kinh doanh nhỏ, ít nhân lực kế toán, nên tính đơn giản và dễ dùng được đặt lên hàng đầu.
Ngoài ra, cán bộ thuế, cán bộ đăng ký kinh doanh cũng sẽ xuống tận nơi – từng tổ dân phố, từng khu chợ – để hỗ trợ người dân cài đặt, hướng dẫn sử dụng và cả đăng ký thuế, đăng ký kinh doanh nếu cần. Mục tiêu là làm sao để người kinh doanh cảm thấy việc chuyển đổi không còn quá phức tạp hay tốn kém, mà thực sự là một bước tiến tích cực.
Tất nhiên, để mọi thứ vận hành trơn tru, không chỉ cơ quan thuế mà bản thân người kinh doanh cũng cần chủ động hợp tác, sẵn sàng thay đổi. Đây là một phần trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia – nếu làm tốt thì không chỉ ngành thuế được hưởng lợi, mà chính người kinh doanh cũng sẽ thấy công việc quản lý gọn gàng, minh bạch và thuận tiện hơn rất nhiều.

Nếu người tiêu dùng không được cung cấp hóa đơn khi mua hàng, họ có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình, đặc biệt trong trường hợp cần khiếu nại hoặc bảo hành?
Luật sư Nguyễn An Bình: Theo quy định pháp luật, cụ thể là Điều 90 của Luật Quản lý thuế năm 2019, khi bán hàng hay cung cấp dịch vụ, người bán bắt buộc phải lập và giao hóa đơn điện tử cho người mua. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người tiêu dùng – nhất là khi đi siêu thị, ăn uống, mua sắm – thường không yêu cầu hóa đơn, vì nghĩ không cần thiết. Chỉ những trường hợp cần chứng từ để hạch toán hay vận chuyển hàng thì họ mới quan tâm đến hóa đơn.
Nhưng chính việc đó lại tạo ra một lỗ hổng. Khi không lấy hóa đơn, người mua tự làm khó mình nếu sau này xảy ra sự cố cần khiếu nại hay bảo hành sản phẩm. Đồng thời, nó cũng vô tình tiếp tay cho người bán dễ dàng "giấu doanh thu", trốn thuế, làm thất thoát nguồn thu ngân sách – vốn dùng để đầu tư vào các dịch vụ công, an sinh xã hội mà ai trong chúng ta cũng đang được hưởng.
Vì vậy, lời khuyên của tôi là: Nếu mua hàng mà người bán không chủ động cung cấp hóa đơn, chúng ta hoàn toàn có quyền yêu cầu họ xuất hóa đơn. Đây là quyền lợi chính đáng, không ai được phép từ chối. Trường hợp người bán cố tình không cung cấp, người tiêu dùng có thể phản ánh qua các kênh của cơ quan thuế – hiện nay đã có nhiều hình thức tiếp nhận phản ánh rất thuận tiện, từ điện thoại đến ứng dụng trực tuyến.
Thói quen "mua hàng là phải có hóa đơn" nên được xem như một nét tiêu dùng văn minh. Nó không chỉ tạo sự minh bạch cho toàn xã hội mà còn là cách để chúng ta tự bảo vệ mình trong các giao dịch thương mại – từ quyền được bảo hành, đổi trả đến xử lý tranh chấp nếu có.
Về phía cơ quan quản lý và các đơn vị kỹ thuật, hạ tầng công nghệ thông tin cũng phải đảm bảo vận hành trơn tru, ổn định, tránh tình trạng nghẽn lệnh hay mất kết nối – để việc xuất hóa đơn điện tử được thực hiện thuận lợi, không làm khó người bán hay người mua.
Theo ông, cơ quan thuế cần làm gì để việc triển khai Nghị định 70 thực sự hiệu quả, tránh tình trạng "trên nóng, dưới lạnh"?
Luật sư Nguyễn An Bình: Tôi cho rằng để Nghị định 70 đi vào cuộc sống một cách thực chất, cơ quan thuế cần có sự chuẩn bị đồng bộ và phối hợp chặt chẽ ở nhiều cấp độ.
Trước tiên, phải đào tạo kỹ cho cán bộ ở tất cả các cấp, để mọi người nắm rõ tinh thần và nội dung của nghị định, đặc biệt là các điểm mới liên quan đến thương mại điện tử. Khi hiểu đúng thì mới làm đúng được.
Thứ hai, cần giao trách nhiệm rõ ràng cho từng cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị. Không thể làm theo kiểu phong trào hay hình thức. Phải có cơ chế đánh giá cụ thể để biết ai làm tốt, ai chưa làm được.
Một điểm nữa rất quan trọng là phải thiết lập được kênh kết nối hai chiều giữa trung ương và địa phương. Có như vậy mới kịp thời cập nhật tiến độ, cũng như tháo gỡ được những vướng mắc từ thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin cần được đẩy mạnh. Cơ quan thuế nên tận dụng dữ liệu từ sàn thương mại điện tử, ngân hàng, mạng xã hội… để phân tích, đối chiếu và quản lý hiệu quả hơn.
Cuối cùng là phối hợp liên ngành – không thể chỉ ngành thuế làm một mình. Cần sự tham gia tích cực của Bộ Công Thương, Bộ TT&TT và các nền tảng số để cùng nhau xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin minh bạch, chống thất thu thuế.
Tóm lại, nếu không có chỉ đạo quyết liệt, hành động đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ thì rất dễ rơi vào tình trạng "trên nóng, dưới lạnh". Nghị định có hay mấy mà thực thi không nghiêm thì cũng khó tạo ra thay đổi thực chất.
Xin cảm ơn ông!
Phan Trang