Ngân hàng cần bơm bao nhiêu vốn cho nền kinh tế để tăng trưởng GDP 10% mỗi năm từ nay đến 2030?

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni cho rằng quy mô tín dụng của nền kinh tế cần tăng gấp đôi trong 5 năm tới để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 10% mỗi năm.

Chia sẻ tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026 do VietnamBiz tổ chức sáng 4/11,TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni nhận định nền kinh tế muốn tăng trưởng, vốn vẫn là yếu tố then chốt, bên cạnh các yếu tố lao động, khoa học, thể chế, môi trường…

Ông giả định, nếu Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% mỗi năm từ nay đến năm 2030, đây là tăng trưởng thực. Nếu cộng thêm khoảng 3% lạm phát thì tăng trưởng danh nghĩa vào khoảng 13%.

"Để đạt được mức này, thông thường tăng trưởng tín dụng phải vượt qua tăng trưởng của GDP danh nghĩa khoảng 3 điểm %. Mức này là khá an toàn, nên du di tôi lấy 2 điểm %, thì tăng trưởng tín dụng đâu đấy cần đạt khoảng 15%/năm, từ nay đến 2030. Như vậy, trong 5 năm tới, quy mô tín dụng của nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi", ông Tú Anh ước tính.

"Khi đó, tài sản của hệ thống ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan cũng sẽ tăng tương ứng. Rõ ràng, vai trò của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng", vị chuyên gia này đánh giá.

TS. Nguyễn Tú Anh: Để tăng trưởng GDP 10% từ nay đến năm 2030, quy mô tín dụng toàn nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi - Ảnh 1.

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đến cuối năm 2024 đạt 15,6 triệu tỷ đồng. Đến ngày 29/9/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 17,71 triệu tỷ đồng, tăng 13,37% so với cuối năm 2024. Ngân hàng Nhà nước dự kiến tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 sẽ đạt khoảng 19-20%.

Theo ông Tú Anh, thị trường vốn có thể phát triển và đồng hành nhưng với các nền kinh tế Đông Á hay thậm chí ngay cả ở Mỹ, ngân hàng vẫn có lợi thế hơn trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế.

Bản chất của thị trường tài chính là kinh doanh rủi ro, trong đó ngân hàng là nơi chuyên môn hóa trong việc thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro. Cùng với sự phát triển của công nghệ số, việc này càng ngày càng có thể làm được với quy mô lớn hơn, chi phí rẻ hơn và tiếp cận được nhiều cá nhân hơn. Vì vậy, chi phí quản lý vốn và rủi ro của ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn.

Trong khi đó, bản chất của thị trường vốn là các cá nhân phải tự "deal rủi ro" (đánh giá, quản lý và giảm thiểu rủi ro). Điều này quá lớn, đặc biệt đối với thị trường đang phát triển như Việt Nam thì rủi ro càng lớn. Bởi hệ thống quản trị và pháp luật của chúng ta chưa đủ chặt chẽ để hạn chế rủi ro đó.

"Do vậy, dù chúng ta rất mong muốn thị trường vốn phát triển để chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng, nhưng trong trung hạn, tôi cho rằng vai trò của ngân hàng vẫn là quan trọng", ông nhận định.

TS. Nguyễn Tú Anh: Để tăng trưởng GDP 10% từ nay đến năm 2030, quy mô tín dụng toàn nền kinh tế sẽ phải tăng gấp đôi - Ảnh 2.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam cũng cho rằng vai trò của ngân hàng đối với nền kinh tế luôn luôn là kênh dẫn vốn quan trọng nhất.

Đánh giá sâu hơn về con số tỷ lệ tín dụng của Việt Nam/GDP khoảng 134%, ông Thành nhận định, trong giai đoạn từ năm 2013 đến trước năm 2022, tín dụng tăng mạnh chủ yếu đến từ cho vay bán lẻ, cho vay doanh nghiệp trên GDP chiếm tỷ trọng không quá lớn. Nếu so sánh con số này với các thị trường khác, đây vẫn là một tỷ lệ rất an toàn và còn dư địa để phát triển thêm.

"Dư địa cho vay doanh nghiệp vẫn còn rất lớn, với tỷ lệ cho vay doanh nghiệp trên GDP dưới 80%, ở mức lành mạnh", ông Thành cho hay.

Theo vị chuyên gia này, hướng đi tiếp theo của ngành ngân hàng là mở rộng cho vay sản xuất. Khi Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh, hướng tới mục tiêu trên 10% GDP và lấy doanh nghiệp tư nhân làm chủ lực. Cho vay sản xuất sẽ là nơi mở rộng quy mô, tuy nhiên, đây là câu chuyện dài hạn – cần 5 đến 10 năm để chuyển dịch dần.

Trong ngắn hạn, động lực cho vay sẽ đến từ mảng hạ tầng và năng lượng. Những năm gần đây, quy mô đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhỏ, nhưng trong 5 năm tới, theo kế hoạch tăng trưởng GDP 10% và tính toán của Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư cần khoảng 1.400 tỷ USD, tức bình quân mỗi năm khoảng 280 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn FDI chỉ chiếm 24–30 tỷ USD, còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước – bao gồm Chính phủ và doanh nghiệp tư nhân.

Chính phủ hiện đang khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng và năng lượng. Và “miếng bánh” này đang mở rộng và mức độ tham gia của doanh nghiệp tư nhân cũng ngày càng tăng.

"Trong hai năm gần đây, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia xây dựng đường sá, công trình hạ tầng, và gần đây bắt đầu mở rộng sang mảng năng lượng. Khi doanh nghiệp tư nhân tham gia, ngân hàng cũng sẵn sàng tài trợ. Ngay cả những ngân hàng thận trọng nhất như Vietcombank cũng sẵn sàng tham gia cho vay hạ tầng. Quan trọng là họ lựa chọn được doanh nghiệp tư nhân đủ năng lực để triển khai dự án", Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam cho hay.

Quang Hưng

An ninh Tiền tệ - Tạp chí Người Đưa Tin Pháp luật

MỚI CẬP NHẬT