Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng và chớp được thời cơ chiến lược, chỉ trong gần nửa tháng, cách mạng tháng Tám đã nổ ra và giành thắng lợi hoàn toàn trong hòa bình. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trao đổi với Người Đưa Tin, Đại sứ GS.TS Vũ Dương Huân – nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao khẳng định, Cách mạng tháng Tám thành công nhanh chóng, diễn ra trong hòa bình có nhiều nguyên nhân, khách quan, chủ quan, nhất là có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một trong các nhân tố thành công chính là Đảng và Bác Hồ đã dự báo đúng thời cơ, có chuẩn bị chu đáo để đón thời cơ, chớp được thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa thành công. Thời cơ lớn mà Đảng ta chớp được chính là chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với chiến thắng của phe đồng minh, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện đồng minh, chính quyền Nhật ở Đông Dương tan rã, quân Tưởng và quân Anh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật.
"Với việc giành được chính quyền và thành lập Nhà nước Việt Nam độc lập đã làm phá sản ý đồ của các nước lớn trong đồng minh phương Tây đối với Đông Dương, đã vô hiệu hóa quyết định về Đông Dương của các nước lớn tại Hội nghị Potsdam", Đại sứ Vũ Dương Huân đánh giá.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, chính thức tuyên bố với quốc dân đồng bào và cộng đồng quốc tế sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam mới đã mở ra bước ngoặt lớn của lịch sử đất nước, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Một chủ thể mới đã xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới, là nhà dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Với diện tích hơn 333.000 km2 và dân số lúc đó hơn 20 triệu người, Việt Nam từng bước lớn mạnh, có đóng góp xứng đáng vào lịch sử Đông Nam Á và thế giới.
"Việt Nam một nước thuộc địa nhỏ bé, lạc hậu giành được độc lập tự do vào thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã trở thành một biểu tượng chẳng những về lòng quả cảm cách mạng mà còn được ghi nhận như là bước khởi đầu phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trên thế giới", Đại sứ Vũ Dương Huân phân tích.
Mặt khác, Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam độc lập ra đời về cơ bản phù hợp với xu thế chung của thời đại: Phong trào chống chiến tranh phát xít chuyển sang chống ách thống trị của thực dân phương Tây, giành tự do, độc lập và đúng với những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ trong quan hệ quốc tế hình thành trong thời kỳ chiến tranh chống phát xít. Nó cũng phù hợp với những nguyên tắc tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, dân tộc, tự quyết mà các nước lớn đã cam kết trong Hiến chương Đại Tây Dương.
Theo GS.TS Vũ Dương Huân, một trong những điểm nổi bật trong những ngày mùa thu lịch sử năm 1945 chính là Bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân, đồng bào – một văn bản có giá trị vượt thời đại, mang sức mạnh tinh thần to lớn, làm nên sức mạnh của lớp lớp thế hệ người Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn độc lập cũng thể hiện tài ngoại giao xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam, người được cả thế giới công nhận và kính phục về tài ngoại giao xuất chúng.
Sau khi tổng khởi nghĩa nổ ra, giành thắng lợi nhanh chóng tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn cùng các địa phương khác, tối 25/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh về đến Hà Nội, tạm thời ở tại số nhà 48 phố Hàng Ngang. Người cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định sẽ gấp rút chuẩn bị để tổ chức lễ tuyên bố độc lập vào ngày 2/9/1945.
Công việc quan trọng nhất là khởi thảo Tuyên ngôn Độc lập do Người trực tiếp đảm nhiệm. Chỉ trong vòng 4 ngày (ngày 26-29/8/1945), cùng với bộn bề công việc sau Tổng khởi nghĩa, Người đã hoàn thành dự thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba của Việt Nam sau bài thơ "Nam Quốc Sơn Hà" được Lý Thường Kiệt đọc năm 1077 và "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi năm 1428.
Đại sứ GS.TS Vũ Dương Huân – nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao.
"Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhân dân và cách mạng Việt Nam, khẳng định nước Việt Nam dân chủ mới đã ra đời thay cho chế độ thuộc địa của thực dân Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan hệ bình đẳng với tất cả các nước trên thế giới và mong rằng các nước trên thế giới công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia mới ra đời.
Bản Tuyên ngôn này đã trở thành nền tảng cho nước Việt Nam sau này bởi không có tuyên bố thành lập nước thì Việt Nam không thể thành một chủ thể trên quan hệ quốc tế. Do đó, Bản Tuyên ngôn độc lập có giá trị vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam, có giá trị quốc tế và thời đại," GS.TS. Vũ Dương Huân đánh giá.
Ngày 2/9/1945 đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam non trẻ, đối mặt với muôn vàn thách thức, khó khăn.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào, theo chúng là bọn tay sai thuộc các tổ chức phản động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Ngoài ra, trên cả nước còn hơn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
Trong khi đó, chính quyền vừa thành lập, lực lượng vũ trang rất nhỏ bé, trang bị vũ khí thô sơ. Về kinh tế, công nghiệp bị đình đốn, đồng ruộng bị bỏ hoang, tài chính bị kiệt quệ, ngân khố trống rỗng, ngân hàng vẫn nằm trong tay người Pháp. Ở miền Bắc, nạn đói giữa năm 1945 làm hai triệu người chết, tiếp đó là đồng bằng Bắc bộ bị trận lụt lớn tàn phá, 95% dân số Việt Nam mù chữ...
Trước bối cảnh đó, Đảng và Bác Hồ xác định đường lối cách mạng nước ta vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, dân tộc trên hết. Về chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương ngoại giao với tất cả các nước trên nguyên tắc "bình đẳng và tương trợ" thuật ngoại giao là: "làm nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết."
Thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại Đảng, với tư cách là Chủ tịch Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Bác Hồ đã triển khai nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên Hợp Quốc thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định tính hợp pháp của nước ta và tố cáo thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, đồng thời nêu rõ thiện chí hòa bình, mong muốn các nước lớn và Liên Hợp Quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương để tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi thiện chí, nỗ lực của chúng ta.
Ngay sau khi ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Theo GS.TS. Vũ Dương Huân, ngay từ giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giữ quan hệ với các đại diện của Mỹ ở Việt Nam, tiếp xúc với Đại sứ Mỹ tại Pháp khi thăm Pháp...Người còn đề nghị cử một phái đoàn gồm 50 thanh niên Việt Nam thăm Mỹ, thiết lập quan hệ văn hóa, xúc tiến nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp..., chủ động thành lập Việt-Mỹ thân hữu Hội.
Trong thế "ngàn cân treo sợi tóc" của đất nước Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ, Người thúc đẩy các biện pháp đối nội như tuyên bố độc lập, ra mắt Chính phủ, tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, soạn thảo Hiến pháp...
Có thể nói, trong giai đoạn cam go ngay sau khi nước nhà được độc lập, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù.
Đúc kết từ những nghiên cứu về ngoại giao Hồ Chí Minh từ giai đoạn Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, GS.TS. Vũ Dương Huân đã đưa ra một số bài học quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngoại giao Việt Nam.
Đó là đặt lợi ích chính đáng của dân tộc lên trên hết, đồng thời phải tôn trọng lợi ích dân tộc chính đáng của các nước khác, nhất là của các nước láng giềng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ ngoại giao: "Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm."
Lợi ích chính đáng của dân tộc Việt Nam là hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân; lợi ích phát triển và phát huy ảnh hưởng.
Cùng với đó, cần kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; độc lập tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ là "tự điều hành đất nước, không có sự can thiệp của nước ngoài," tức là dựa vào sức mình là chính. Bác Hồ nhấn mạnh: "Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự cứu lấy mình."
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường nghĩa là nội lực là quyết định, song ngoại lực rất quan trọng, góp phần làm tăng khả năng tự lực tự cường của đất nước. Mặt khác, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, biệt phái, mà đi liền với đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Bác Hồ luôn khẳng định: "Thêm bạn bớt thù," "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai," "Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta." Đó là tiền đề chính sách đối ngoại rộng mở và đa dạng, đa phương hóa sau này của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Những bài học lịch sử đúc kết từ mùa thu Độc lập năm 1945 đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận, thực tiễn và có tính thời sự sâu sắc.
Theo GS.TS. Vũ Dương Huân, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, mâu thuẫn Xô-Trung rất sâu sắc, song nhờ có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn cả vật chất và tinh thần của cả Liên Xô và Trung Quốc.
Trong thời kỳ đổi mới nhờ có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, chúng ta đã tranh thủ được ngoại lực to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một bài học khác là phải coi trọng, xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, xây dựng, giữ gìn quan hệ hữu nghị và lâu dài, bền vững với các nước láng giềng.
Đặc biệt, bài học "Dĩ bất biến ứng vạn biến," lấy cái không đổi để ứng phó với vạn cái thay đổi và lấy vạn điều thay đổi để thực hiện điều không đổi. Đây cũng là mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, giữa nguyên tắc và sách lược.
Nếu chỉ biết cái bất biến sẽ trở nên giáo điều, còn chỉ biết cái vạn biến dễ chệch hướng, lạc mục tiêu. Đó chính là triết lý phương Đông rất đặc sắc, là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược.
Nguyên tắc "Dĩ bất biến ứng vạn biến:" Một là, giữ vững mục tiêu các mạng. Hai là, trung thành với lý tưởng đã lựa chọn, có niềm tin vào thắng lợi. Ba là, nắm chắc quy luật tất yếu của của lịch sử. Bốn là, phải biết nhân nhượng, thỏa hiệp, song nhân nhượng thỏa hiệp phải có nguyên tắc. Năm là, xác định đúng giới hạn của nhân nhượng. Sáu là, luôn nhạy bén dự báo, phát hiện thay đổi, nhất là trong các bước ngoặt và kiên quyết, sáng tạo, mưu lược thực hiện điều vạn biến, các vấn đề sách lược.
80 năm đã trôi qua, Việt Nam đã vững vàng trên con đường phát triển và hội nhập quốc tế, khẳng định vai trò của một Việt Nam độc lập, tự chủ, một Việt Nam có vị thế quan trọng trong khu vực cũng như trên trường quốc tế, song ý nghĩa, giá trị lịch sử và những bài học vượt thời đại của mùa thu Độc lập năm 1945 và những ngày đầu lập quốc sẽ còn mãi được ghi nhớ và trở thành hành trang cho dân tộc trong chặng đường mới.
Đặng Thị Quỳnh
Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/bac-ho-voi-mua-thu-doc-lap-nhung-bai-hoc-con-mai-205250902085139696.htm