CEO Chứng khoán ACBS: Cần tập trung vào 3 giải pháp để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán

3 giải pháp được ông Nguyễn Đức Hoàn đưa ra là phát triển chất lượng thị trường theo hướng nâng tầm minh bạch, chuẩn mực và hiệu quả, phát triển quy mô thị trường, mở rộng độ sâu và bề rộng và hội nhập sâu với thị trường tài chính quốc tế.

Sau nhiều tuần tăng điểm thì thị trường chứng khoán đã phục hồi lại gần mức 1.500 điểm, với thanh khoản dồi dào và tâm lý tích cực từ phía các nhà đầu tư. Trải qua hai thập kỷ rưỡi hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã và đang ngày càng trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế. Trong sự phát triển đó, ngoài vai trò quan trọng của các cơ quan quản lý và vận hành thị trường thì không thể không nhắc đến những đóng góp của các thành viên trên thị trường như các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư và nhà đầu tư…trong hành hình phát triển thị trường chứng khoán trong hai thập kỷ rưỡi qua.

Trao đổi về vấn đề này trong Talk show Phố Tài chính (The Finance Street) trên VTV8, ông Nguyễn Đức Hoàn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Chứng khoán ACB (ACBS) đánh giá, các cơ quan quản lý và vận hành thị trường cùng các thành viên thị trường đã và đang tiếp tục nỗ lực để thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ và bền vững, đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế trong kỷ nguyên mới.

BTV Khánh Ly: Như ông cũng đã thấy hai thập kỷ rưỡi trôi qua với không ít thăng trầm, nhưng nhiều thành quả ý nghĩa của thị trường chứng khoán Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về những dấu ấn của thị trường chứng khoán đã đạt được trong suốt 25 năm qua?

Ông Nguyễn Đức Hoàn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Chứng khoán ACB (ACBS): Thị trường của chúng ta đã thay đổi rất tích cực trong suốt 25 năm qua, mặc dù 25 năm vẫn là rất khiêm tốn so với nhiều thị trường trong khu vực. Nhìn lại chặng đường 25 năm chúng ta có thể thấy rằng vào giai đoạn sơ khai, vốn hóa của VN INDEX chỉ đạt chưa tới 300.000 tỷ đồng, tỷ trọng vốn hóa/GDP chỉ đạt 13% vào năm 2007. Quy mô vốn hóa và tỷ lệ vốn hóa/GDP của TTCK đã tăng mạnh trong hơn 20 năm qua. Cuối năm 2024, quy mô vốn hóa của 3 sàn giao dịch đạt 7,8 triệu tỷ đồng, chiếm gần 65% GDP. Tính tới hết tháng 5 năm 2025, vốn hóa 3 sàn đạt 8,2 triệu tỷ đồng, chiếm 68% GDP.

Bên cạnh đó, từ con số 5 doanh nghiệp ban đầu năm 2000, đến nay, trên HOSE đã có hơn 400 doanh nghiệp niêm yết, hơn 300 mã niêm yết trên HNX và gần 900 mã giao dịch tập trung trên UPCOM. Tổng hợp lại, có gần 1.600 mã niêm yết và giao dịch tập trung. 

Ngoài ra, về số lượng nhà đầu tư cũng từ 3.000 tài khoản NĐT cá nhân năm 2000, và đến hết tháng 6/2025 đã có hơn 10,2 triệu tài khoản của NĐT cá nhân trong nước, tương đương 10% dân số. Bên cạnh đó, số lượng NĐT nước ngoài cũng tăng nhanh chóng, cuối tháng 6/2025 đạt 48,6 nghìn tài khoản. Tôi nghĩ rằng là chiến lược từ năm 2025 đến năm 2030, giá trị vốn hóa của thị trường chúng ta còn rất nhiều room để tiếp tục tăng trưởng.

Có thể thấy, vai trò của thị trường chứng khoán đối với với nền kinh tế ngày càng được nâng cao, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, đồng thời tạo ra những doanh nghiệp tỷ USD trên thị trường, chất lượng các doanh nghiệp ngày càng cao và minh bạch… Ông đánh giá như thế nào về điều này?

Tôi cho rằng vai trò của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp niêm yết vô cùng quan trọng. Nhìn vào số liệu lịch sử cho thấy, thị trường chứng khoán (TTCK) là kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp.

Quy mô huy động vốn mới của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào triển vọng của TTCK. Ví dụ trong giai đoạn 2015-2020, quy mô huy động vốn mới của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chỉ khoảng 2.000 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, khi thị trường bùng nổ vào năm 2021-2020, bình quân mỗi năm huy động 20.000 đến 30.000 tỷ đồng, trước khi sụt giảm trở lại khoảng 5.000 tỷ đồng năm 2023, và đang có sự cải thiện trở lại trong bối cảnh tích cực dần lên của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, đến cuối năm 2024, có 41 doanh nghiệp niêm yết đạt mức vốn hóa lớn hơn 1 tỷ USD. Trong đó, có những doanh nghiệp đạt mức vốn hóa trên 10 tỷ USD như VCB, BID, VIC, VHM…

Tuy nhiên, chúng tôi mong rằng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong thời gian tới sẽ có những chuyển biến tích cực hơn nữa. Theo báo cáo của UBCK nhà nước, trong giai đoạn 2016-2020, có khoảng 180 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, quy mô vốn hóa gần 500.000 tỷ đồng, nhưng trong giai đoạn 2021-2022 thì chỉ có 5 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa với quy mô vốn hóa rất thấp (~ 600 tỷ đồng). Trong giai đoạn 2023-2025, chúng ta có kế hoạch cổ phần hóa 30 DNNN, nhưng cho tới hết Quý II năm 2025 vẫn chưa thực hiện được.

Trong sự phát triển của thị trường chứng khoán không thể thiếu vai trò của các thành viên trên thị trường như các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư và nhà đầu tư… ông đánh giá như thế nào về những vai trò ấy trong hành trình hai thập kỷ rưỡi qua của thị trường?

Cuối năm 2024, theo số liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, hiện có 74 công ty chứng khoán đang hoạt động ở Việt Nam. Rất nhiều công ty đã gia tăng quy mô về vốn điều lệ, từ đó tăng quy mô tổng tài sản một cách mạnh mẽ trong hơn 20 năm vừa qua. Vai trò của các CTCK không chỉ dừng lại ở đơn vị cung cấp dịch vụ môi giới và hạ tầng công nghệ cho NĐT mà đã không ngừng nâng cấp để cung cấp cho NĐT các giải pháp đa dạng của một ngân hàng đầu tư bao gồm: dịch vụ cho vay ký quỹ, giao dịch chứng khoán cơ sở, phái sinh, chứng quyền, trái phiếu, bảo lãnh, tư vấn phát hành, …cung cấp sản phẩm Non-prefunding cho NĐT nước ngoài...

Số lượng NĐT tham gia vào thị trường chứng khoán cũng tăng mạnh cả về lượng và chất. Hết tháng 6/2025, số lượng tài khoản của NĐT cá nhân đã đạt mức 10,2 triệu tài khoản, vượt kế hoạch phát triển tới năm 2030. Bên cạnh đó, kiến thức đầu tư tài chính của các NĐT cá nhân cũng được cải thiện rất nhiều so với giai đoạn sơ khai của thị trường.

Còn đối với nhóm các NĐT tổ chức nước ngoài và trong nước, chúng tôi nhận thấy từng bước phát triển và sự đa dạng của nhóm các NĐT này. Kể từ khi quỹ đầu tư nước ngoài đầu tiên giao dịch trên TTCK Việt Nam, cho tới sự thành lập của ETF ngoại đầu tiên (Vaneck Vietnam ETF) và sự tham gia của dòng vốn P-notes vào năm 2009, cho tới việc thành lập ETF nội địa đầu tiên của Việt nam năm 2014... Trong thời gian tới, khi TTCK Việt Nam được nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp, chúng tôi cho rằng vai trò của các NĐT tổ chức nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng. 

Trong giai đoạn phát triển mới, nhu cầu của các nhà đầu tư và thị trường sẽ ngày càng gia tăng. Theo ông, thị trường chứng khoán cần phát triển theo hướng như thế nào để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vươn cao hội nhập quốc tế sâu rộng?

Chúng ta thấy rằng trong suốt thời gian qua, sự chỉ đạo sát sao và hỗ trợ từ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khoán nhà nước đã luôn luôn bổ sung, cải tiến tất cả các quy trình, quy chế để phù hợp nhất và hỗ trợ cho các thành viên tham gia thị trường và đặc biệt là các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Và tôi nghĩ rằng trong thời gian tới với sự phát triển của thị trường và rất nhiều chính sách, nghị định, thông tư đã và sẽ được thông qua sẽ tạo điều kiện hơn cho thị trường phát triển. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, thời gian tới cần tập trung vào những nhóm giải pháp sau đây để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán.

Giải pháp trọng tâm thứ nhất là phát triển chất lượng thị trường theo hướng nâng tầm minh bạch, chuẩn mực và hiệu quả như việc tăng cường minh bạch thông tin, nâng chuẩn công bố thông tin theo thông lệ quốc tế (IFRS), chuẩn mực công bố thông tin bằng tiếng Anh, rút ngắn thời gian báo cáo tài chính, giám sát nghiêm hành vi thao túng, tạo niềm tin cho cả nhà đầu tư nội và ngoại. Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm tài chính như phát triển thị trường phái sinh, trái phiếu doanh nghiệp niêm yết, chứng quyền có bảo đảm, các sản phẩm liên kết chỉ số (index-linked), phục vụ nhu cầu đa dạng hóa danh mục và phòng ngừa rủi ro. Ngoài ra, cần nâng chuẩn quản trị doanh nghiệp, gắn kết vai trò của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và thúc đẩy hội đồng quản trị theo hướng độc lập và có trách nhiệm.

Giải pháp trọng tâm thứ hai là phát triển quy mô thị trường, mở rộng độ sâu và bề rộng như việc gia tăng số lượng doanh nghiệp niêm yết có chất lượng, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước gắn với niêm yết thực chất, đồng thời thu hút thêm doanh nghiệp tư nhân lớn lên sàn. Tiếp theo cần tăng quy mô và năng lực trung gian tài chính như phát triển các công ty chứng khoán theo mô hình ngân hàng đầu tư, gia tăng vốn hóa, năng lực tư vấn, bảo lãnh phát hành và phân phối sản phẩm, đồng thời thu hút dòng vốn dài hạn bằng việc thiết kế chính sách khuyến khích quỹ hưu trí, bảo hiểm, quỹ đầu tư dài hạn tham gia thị trường, giảm phụ thuộc vào dòng vốn ngắn hạn và đầu cơ.

Giải pháp trọng tâm thứ ba là cần hội nhập sâu với thị trường tài chính quốc tế như việc thúc đẩy nâng hạng thị trường bằng các giải pháp đẩy nhanh hoàn tất các yêu cầu về prefunding, "room" ngoại … nhằm hướng tới mục tiêu nâng hạng lên thị trường mới nổi theo MSCI và FTSE trong vòng 1–2 năm tới. Bên cạnh đó, cần tích hợp công nghệ tài chính (fintech), tạo điều kiện phát triển mô hình đầu tư số, giao dịch trực tuyến, robo-advisory, tài sản số hóa (tokenized securities), tăng tiếp cận của nhà đầu tư thế hệ mới. Cuối cùng là phát triển các trung tâm tài chính khu vực, như xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và thúc đẩy kết nối trực tiếp với các sàn giao dịch lớn trong khu vực như Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc).

Minh Quân


Đàm Thị Thuý Vân

Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/ceo-chung-khoan-acbs-can-tap-trung-vao-3-giai-phap-de-tiep-tuc-phat-trien-thi-truong-chung-khoan-205250722104400071.htm