Tạm giữ, tạm giam là những biện pháp cách ly bị can, bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời hạn nhất định theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giam có thể được áp dụng trong trường hợp là bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định.
Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 của Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam như sau:
“1. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có các quyền sau đây:
a) Được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ;
b) Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân;
c) Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu;
d) Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự;
đ) Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;
e) Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;
g) Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam;
h) Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;
i) Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;
k) Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành quyết định, yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam;
b) Chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.”
Như vậy, pháp luật không hạn chế quyền được tham gia vào các giao dịch dân sự đối với người đang bị tam giữ, tạm giam. Do đó, người đang bị tạm giữ, tạm giam có thể trực tiếp tham gia vào các giao dịch mua bán tài sản hoặc ủy quyền cho một người khác mua bán tài sản.
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
Như vậy, trường hợp tài sản nhà đất có đủ các điều kiện nêu trên thì chủ tài sản dù đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù vẫn được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Người nhà của người bị tạm giam cần liên hệ với tổ chức công chứng (Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng) trong phạm vi địa giới hành chính cấp tỉnh nơi có nhà đất và đề nghị họ dự thảo và chứng nhận hợp đồng mua bán nhà đất.
Gia đình cần cung cấp đầy đủ thông tin, giấy tờ về nhân thân, tài sản của bên mua và bên bán, thông tin cơ quan giam giữ cho tổ chức công chứng. Xét thấy thành phần hồ sơ, giấy tờ đủ điều kiện chuyển nhượng, tổ chức công chứng sẽ có văn bản gửi cơ quan giam giữ để đề nghị sắp xếp thời gian, địa điểm ký hợp đồng mua bán.
Nếu xét thấy tài sản không bị kê biên và việc công chứng viên tiếp xúc với người bị tạm giam không ảnh hưởng đến bí mật của hoạt động điều tra, cơ quan chức năng sẽ thông báo thời gian cụ thể để công chứng viên thực hiện nhiệm vụ.
Lưu ý, toàn bộ quá trình người bị tạm giam ký hợp đồng chuyển nhượng sẽ chịu sự giám sát của cơ quan giam giữ để đảm bảo rằng không có bất kỳ hành vi nào có thể gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra.
Sau hoàn tất việc ký hợp đồng, thủ trưởng cơ quan giam giữ sẽ xác nhận trên hợp đồng về việc người bán là đối tượng đang bị tạm giam. Trường hợp vì lý do nào đó mà cơ quan giam giữ không đồng ý thì sẽ có văn bản trả lời để tổ chức công chứng được biết.
Người bị tạm giam có thể ủy quyền cho người khác thực hiện các thủ tục mua bán. Cách thức công chứng viên chứng nhận hợp đồng (ủy quyền) tại cơ quan giam giữ được thực hiện tương tự như trường hợp thứ nhất.
So với việc trực tiếp ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản thì việc thông qua ủy quyền sẽ chủ động hơn trong quá trình thực hiện các thủ tục pháp lý có liên quan.
Hà Ly (t/h)
Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/dang-bi-tam-giam-co-duoc-chuyen-nhuong-tai-san-khong-2055496.htm