GDP 9 tháng tăng 7,85%, doanh nghiệp thành lập mới nhiều gấp rưỡi cùng kỳ

Cục Thống kê - Bộ Tài chính vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2025.

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2025 ước tính tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 14,38% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%, đóng góp 5,04% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,46%, đóng góp 46,41%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là điểm sáng của nền kinh tế với tốc độ tăng 9,98%; khu vực dịch vụ tăng 8,56%, đóng góp 48,55%. Về sử dụng GDP quý III/2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 59,76% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 8,97%, đóng góp 44,67%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18,30%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18,53%.

GDP chín tháng năm 2025 ước tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 5,36% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,69%, đóng góp 43,05%; khu vực dịch vụ tăng 8,49%, đóng góp 51,59%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản mặc dù chịu tác động bất lợi từ bão, mưa lũ, nhưng nhờ triển khai kịp thời các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai nên sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn duy trì ở mức ổn định. Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chín tháng năm 2025 tăng 3,83%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2011, 2018 và 2021 trong giai đoạn 2011-2025. Trong đó, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 3,46% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,52% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 6,46%, đóng góp 0,42%; ngành thủy sản tăng 4,48%, đóng góp 1,41%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất của nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng cao, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp chín tháng năm 2025 tăng 8,55% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 35,06% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng với tốc độ tăng 9,92%, đóng góp 31,73%. Ngành xây dựng tăng 9,33%, đóng góp 7,99%.

Trong khu vực dịch vụ, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong nước tăng mạnh, đặc biệt trong thời gian diễn ra nhiều hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ chín tháng năm 2025 tăng 8,49% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 11,37% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025. Đóng góp của một số ngành dịch vụ có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,28% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 10,72%; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,68%, đóng góp 8,92%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,06%, đóng góp 5,16%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 10,15%, đóng góp 3,50%.

Về cơ cấu nền kinh tế chín tháng năm 2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,30%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,58%; khu vực dịch vụ chiếm 42,92%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,20% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2024 là 11,57%; 37,59%; 42,49%; 8,35%).

Về sử dụng GDP chín tháng năm 2025, tiêu dùng cuối cùng tăng 8,07% so với cùng kỳ năm 2024, đóng góp 73,83% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 8,52%, đóng góp 41,43%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,51%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,75%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

– Lúa hè thu: Diện tích gieo trồng lúa hè thu của cả nước năm nay ước đạt 1.898,3 nghìn ha, giảm 10,9 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2024, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.239,1 nghìn ha, giảm 8,6 nghìn ha. Tính đến ngày 20/9/2025 cả nước thu hoạch được 1.824,1 nghìn ha lúa hè thu, giảm 54,5 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước, chiếm 96,1% diện tích xuống giống. Năng suất gieo trồng lúa hè thu cả nước năm nay ước đạt 57,8 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước đạt gần 11 triệu tấn, giảm 180,2 nghìn tấn so với vụ hè thu năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 7,4 triệu tấn, tăng 24,9 nghìn tấn.

– Lúa mùa: Tính đến ngày 20/9/2025, cả nước đã gieo cấy được 1.461,1 nghìn ha lúa mùa, giảm 7,2 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó miền Bắc đạt 979,8 nghìn ha, giảm 16,4 nghìn ha; miền Nam đạt 481,3 nghìn ha, tăng 9,2 nghìn ha.

– Lúa thu đông: Cũng đến ngày 20/9/2025, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống được 604,4 nghìn ha lúa thu đông, giảm 2,5 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước.

– Cây hàng năm: Diện tích gieo trồng một số loại cây như ngô, đậu tương, lạc giảm so với cùng kỳ năm trước do hiệu quả kinh tế không cao nên nông dân thu hẹp sản xuất.

– Cây lâu năm: Sản xuất cây lâu năm chín tháng năm 2025 đạt khá do một số diện tích cây lâu năm, nhất là cây ăn quả, bị ảnh hưởng từ mưa bão năm trước đã được khôi phục cùng với đó là việc mở rộng diện tích và kỹ thuật canh tác cải thiện. Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 3.868,1 nghìn ha, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2024.

– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò tiếp tục xu hướng giảm chủ yếu do diện tích chăn thả bị thu hẹp và hiệu quả kinh tế không cao. Chăn nuôi lợn gặp khó khăn do dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp. Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt.

b) Lâm nghiệp

Trong quý III/2025, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 71,2 nghìn ha, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 21,5 triệu cây, giảm 0,5%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 6.703,6 nghìn m3, tăng 6,9%; diện tích rừng bị thiệt hại là 134,5 ha, giảm 23,0%. Tính chung chín tháng năm 2025, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 221,8 nghìn ha, tăng 11,0% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 70,1 triệu cây, tăng 1,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 17.963,6 nghìn m3, tăng 8,7%; diện tích rừng bị thiệt hại là 998,3 ha rừng bị thiệt hại, giảm 31,0%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản quý III/2025 ước đạt 2.710,9 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, sản lượng thủy sản ước đạt 7.261,8 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 4.284,3 nghìn tấn, tăng 5,1%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 2.977,5 nghìn tấn, tăng 0,5%.

3. Sản xuất công nghiệp

– Tính chung chín tháng năm 2025, IIP ước tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,4%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,4% (cùng kỳ năm 2024 tăng 9,6%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,1% (cùng kỳ năm 2024 tăng 10,8%), đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,8% (cùng kỳ năm 2024 tăng 9,7%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 0,1% (cùng kỳ năm 2024 giảm 6,9%), đóng góp 0,01 điểm phần trăm.

– Chỉ số sản xuất công nghiệp chín tháng năm 2025 so với cùng kỳ năm trước tăng ở cả 34 địa phương.

– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín năm 2025 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024 tăng 12,5%).

– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/9/2025 ước tăng 4,9% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 13,3% so với cùng thời điểm năm trước. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân chín tháng năm 2025 là 82,3% (bình quân cùng kỳ năm 2024 là 76,8%).

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2025 tăng 1,2% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,5% so với cùng thời điểm năm trước.

4. Hoạt động của doanh nghiệp

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp

– Trong tháng Chín, cả nước có 16,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 17,9% so với tháng trước và tăng 49,8% so với cùng kỳ năm trước; 10,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 13,6% và tăng 65,7%; 4.564 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 30,1% và tăng 7,8%; 6.160 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 10,4% và giảm 16,9%; 4.182 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 9,1% và tăng 160,6%.

Tính chung chín tháng năm 2025, cả nước có 231,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2024; bình quân một tháng có 25,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 174,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 19,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2025 cho thấy: Có 33,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý II/2025; 44,2% số doanh nghiệp nhận định tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 22,2% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý IV/2025, có 40,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2025; 41,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,5% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

5. Hoạt động dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng Chín ước đạt 598,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.759,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với quý trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.176,0 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,2% (cùng kỳ năm 2024 tăng 5,8%).

Vận tải hành khách tháng Chín ước đạt 565,9 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 1,3% so với tháng trước và luân chuyển 28,2 tỷ lượt khách.km, tăng 1,9%; quý III/2025 ước đạt 1.655,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 83,0 tỷ lượt khách.km, tăng 18,0%. Tính chung chín tháng năm 2025, vận tải hành khách ước đạt 4.518,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 235,2 tỷ lượt khách.km, tăng 15,2%.

Vận tải hàng hóa tháng Chín ước đạt 277,7 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 0,8% so với tháng trước và luân chuyển 54,4 tỷ tấn.km, tăng 1,3%; quý III/2025 ước đạt 804,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 161,3 tỷ tấn.km, tăng 16,3%. Tính chung chín tháng năm 2025, vận tải hàng hóa ước đạt 2.236,0 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 453,4 tỷ tấn.km, tăng 14,6%.

Doanh thu hoạt động viễn thông quý III/2025 ước đạt 94,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, d­­oanh thu hoạt động viễn thông ước đạt 284,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,7%).

6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán

– Tính đến thời điểm 25/9/2025, tổng phương tiện thanh toán tăng 10,61% so với cuối năm 2024 (cùng thời điểm năm trước tăng 4,55%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 9,74% (cùng thời điểm năm trước tăng 4,17%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,0% (cùng thời điểm năm trước tăng 8,09%).

– Thị trường bảo hiểm tăng trưởng ổn định, tổng doanh thu phí bảo hiểm quý III/2025 ước đạt 56,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 171,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7%.

– Thị trường chứng khoán ghi nhận những tín hiệu hoạt động sôi động. Tính chung chín tháng năm 2025, tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán đạt 394,3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2024; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 29,2 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng gần 40,0% so với bình quân năm 2024; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 14,6 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng 18,6%; trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân đạt 223,8 nghìn hợp đồng/phiên, giảm 6,0%; sản phẩm chứng quyền có bảo đảm đạt 56,7 triệu chứng quyền/phiên, tăng 14,3% và giá trị giao dịch bình quân đạt 77,7 tỷ đồng/phiên, tăng 84,9%. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư tính đến cuối tháng Tám đạt 10,75 triệu tài khoản, tăng 15,7% so với cuối năm 2024.

7. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý III/2025 theo giá hiện hành ước đạt 1.100,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính chín tháng năm 2025, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 2.701,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/9/2025 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,54 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam chín tháng năm 2025 ước đạt 18,80 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của chín tháng trong 5 năm qua.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong chín tháng năm 2025 có 134 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 709,3 triệu USD, gấp gần 4 lần so với cùng kỳ năm trước; có 23 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 137,5 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của

Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 846,8 triệu USD, gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm trước.

8. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng Chín ước đạt 181,1 nghìn tỷ đồng, lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước chín tháng năm 2025 đạt gần 1.926,0 nghìn tỷ đồng, bằng 97,9% dự toán năm và tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng Chín ước đạt 201,5 nghìn tỷ đồng, lũy kế chín tháng năm 2025 đạt 1.634,8 nghìn tỷ đồng, bằng 63,4% dự toán năm và tăng 31,4% so với cùng kỳ năm trước.

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a) Xuất nhập khẩu hàng hóa

– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Chín đạt 42,67 tỷ USD, giảm 1,7% so với tháng trước và tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 128,57 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 9,6% so với quý II/2025. Tính chung chín tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 348,74 tỷ USD, tăng 16,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 85,41 tỷ USD, tăng 2,0%, chiếm 24,5% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 263,33 tỷ USD, tăng 21,4%, chiếm 75,5%.

+ Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chín tháng năm 2025, nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 309,03 tỷ USD, chiếm 88,6%.

– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Chín đạt 39,82 tỷ USD, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2025, kim ngạch nhập khẩu đạt 119,66 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,3% so với quý II/2025. Tính chung chín tháng năm 2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 331,92 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 105,67 tỷ USD, tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 226,25 tỷ USD, tăng 26,8%.

+ Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu chín tháng năm 2025, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 311,22 tỷ USD, chiếm 93,8%.

– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa chín tháng năm 2025, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 112,8 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 134,4 tỷ USD.

Theo số liệu sơ bộ, cán cân thương mại hàng hóa tháng Chín xuất siêu 2,85 tỷ USD. Tính chung chín tháng năm 2025, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 16,82 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 21,15 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 20,26 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 37,08 tỷ USD.

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Trong quý III/2025, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 7,52 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 10,0% so với quý trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 10,97 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước và tăng 8,4% so với quý trước.

Tính chung chín tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 21,99 tỷ USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 11,12 tỷ USD (chiếm 50,6% tổng kim ngạch), tăng 26,5%; dịch vụ vận tải đạt 6,3 tỷ USD (chiếm 28,7%), tăng 20,9%.

Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ chín tháng năm 2025 ước đạt 30,29 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 10,48 tỷ USD), tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 12,41 tỷ USD (chiếm 41,0% tổng kim ngạch), tăng 18,5%; dịch vụ du lịch đạt 11,44 tỷ USD (chiếm 37,8%), tăng 23,7%.

Cán cân thương mại dịch vụ chín tháng năm 2025 nhập siêu 8,3 tỷ USD.

10. Chỉ số giá

a) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Chín tăng 0,42% so với tháng trước; tăng 2,61% so với tháng 12/2024; tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân quý III/2025 tăng 3,27% so với quý III/2024. Bình quân chín tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,19%.

– Chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 6,53% so với tháng trước; tăng 55,40% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 45,42% so với tháng 12/2024; bình quân chín tháng năm 2025 tăng 41,86% so với cùng kỳ năm trước.

– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Chín tăng 0,30% so với tháng trước; tăng 6,64% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 3,98% so với tháng 12/2024; bình quân chín tháng năm 2025 tăng 3,80% so với cùng kỳ năm trước.

b) Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá sản xuất; chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất; chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa quý III và chín tháng năm 2025 đều tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung chín tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,91% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 2,23%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 5,05%; chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 4,09%; chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 4,46%; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 1,02%; tỷ giá thương mại hàng hóa tăng 3,40%.

11. Một số tình hình xã hội

a) Lao động và việc làm

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý III/2025 là 53,3 triệu người, tăng 254,5 nghìn người so với quý trước và tăng 583,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, tăng 556,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,2%, giảm 0,4 điểm phần trăm.

Lao động có việc làm quý III/2025 ước tính là 52,3 triệu người, tăng 261,3 nghìn người so với quý trước và tăng 580,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, lao động có việc làm là 52,0 triệu người, tăng 552,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 1,50%, giảm 0,23 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,37 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%, giảm 0,34 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,92%, giảm 0,53 điểm phần trăm.

Thu nhập bình quân của người lao động quý III/2025 là 8,4 triệu đồng/tháng, tăng 124 nghìn đồng so với quý II/2025 và tăng 748 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2025. Tính chung chín tháng năm 2025, thu nhập bình quân của người lao động là 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10,0%, tương ứng tăng 756 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 2,22%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động chín tháng năm 2025 là 2,22%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,53%; khu vực nông thôn là 2,00%.

b) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Theo báo cáo Điều tra lao động và việc làm, trong quý III/2025, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập tăng lên và không thay đổi so với cùng kỳ năm 2024 là 96,3% (giảm 0,3 điểm phần trăm so với kỳ báo cáo quý trước và tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước); tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết là 3,7%.

Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ địa phương, trong chín tháng năm nay (tính đến ngày 25/9/2025), tổng số tiền hỗ trợ an sinh xã hội cho các nhóm đối tượng là gần 56,8 nghìn tỷ đồng, trong đó: Lãnh đạo trung ương và địa phương, các ban, ngành, đoàn thể, các nhà hảo tâm cũng đã tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 với số tiền hơn 23,3 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội là 3,5 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 29,5 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là 371,9 tỷ đồng. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội đã cấp phát hơn 27,3 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng.

Trong chín tháng năm nay, Chính phủ đã hỗ trợ cho người dân gần 11,3 nghìn tấn gạo, trong đó: Hỗ trợ hơn 6 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ cho 402,6 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ gần 4,3 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2025 cho 284,5 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ 990 tấn gạo khắc phục hậu quả thiên tai, mưa lũ cho khoảng 66 nghìn nhân khẩu.

c) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong chín tháng năm 2025, cả nước có 112,8 nghìn người sốt phát ban nghi sởi (11 ca tử vong); 86,3 nghìn người mắc sốt xuất huyết (17 ca tử vong); gần 45,9 nghìn người mắc bệnh tay chân miệng; 257 người mắc bệnh viêm não vi rút (01 ca tử vong); 82 người mắc viêm màng não do não mô cầu và 58 người tử vong do bệnh dại.

Về ngộ độc thực phẩm, trong chín tháng năm nay, cả nước xảy ra 51 vụ ngộ độc thực phẩm làm 725 người bị ngộ độc (16 người tử vong).

d) Giáo dục và đào tạo

Về kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) đã ghi dấu bước chuyển quan trọng khi phổ điểm được công bố trước khi thí sinh biết điểm, thể hiện tính minh bạch trong công tác tổ chức thi. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2025 là 99,25% (năm 2024 tỷ lệ này là 90,40%).

Về tình hình khai giảng năm học mới 2025-2026, Lễ khai giảng đặc biệt gắn với Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) được kết nối trực tuyến đến tất cả các cơ sở giáo dục, đào tạo trên toàn quốc.

đ) Hoạt động văn hóa, thể thao

Về văn hóa, trong tháng Chín và quý III năm nay diễn ra các hoạt động văn hóa kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, đặc biệt là các chương trình văn hóa kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 02/9 (A80) với các chủ đề diễn ra rộng khắp cả nước. Bên cạnh đó, âm nhạc Việt Nam đã ghi dấu tại đấu trường âm nhạc quốc tế với thành tích ấn tượng của Ca sĩ Đức Phúc – đại diện Việt Nam xuất sắc giành ngôi vị Quán quân tại Cuộc thi âm nhạc quốc tế Intervision 2025 tại Liên bang Nga…

Về hoạt động thể thao, từ 28/8-01/9 ở In-đô-nê-xi-a, đội tuyển Kurash Việt Nam thi đấu Giải Kurash vô địch Đông Nam Á và Giải Kurash vô địch bãi biển Đông Nam Á 2025; Giải vô địch quốc gia Thể thao người khuyết tật năm 2025 chính thức khai mạc, thu hút hơn 300 huấn luyện viên và vận động viên khuyết tật đến từ 09 tỉnh, thành phố trên cả nước tham gia từ ngày 10-13/9/2025; Giải Vô địch Vovinam Quốc gia năm 2025 tại Vĩnh Long từ ngày 10-15/9…

e) Tai nạn giao thông

Trong tháng Chín (từ 26/8-25/9/2025), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.521 vụ tai nạn giao thông, làm 796 người chết và 1.050 người bị thương. Tính chung chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 13.716 vụ tai nạn giao thông, làm 7.672 người chết và 9.186 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 23,0%; số người chết giảm 6,5% và số người bị thương giảm 30,8%. Bình quân 1 ngày trong chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 50 vụ tai nạn giao thông, làm 28 người chết và 33 người bị thương.

g) Thiệt hại do thiên tai

Thiệt hại do thiên tai trong tháng Chín làm 7 người chết và mất tích, 5 người bị thương; 19,5 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; gần 12,3 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; gần 1,3 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 699,4 tỷ đồng, giảm 99,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong chín tháng năm nay, thiên tai làm 187 người chết và mất tích, 210 người bị thương; 246,4 nghìn ha lúa và hơn 40,0 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; hơn 762,0 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 38,4 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong chín tháng năm nay ước tính 16.135,2 tỷ đồng, giảm 80,8% so với cùng kỳ năm 2024.

h) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng (từ 26/8-25/9/2025), các cơ quan chức năng phát hiện 948 vụ vi phạm môi trường tại 30/34 địa phương, trong đó xử lý 775 vụ với tổng số tiền phạt 14,8 tỷ đồng, tăng 52,7% so với tháng trước và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong chín tháng năm nay đã phát hiện 11.611 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 10.306 vụ với tổng số tiền phạt là gần 165,0 tỷ đồng, giảm 26,6% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng (từ 15/8-14/9/2025), cả nước xảy ra 259 vụ cháy, nổ, làm 07 người chết và 08 người bị thương, thiệt hại ước tính 26,9 tỷ đồng, giảm 17,3% so với tháng trước và giảm 60,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong chín tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.470 vụ cháy, nổ, làm 83 người chết và 97 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 239,0 tỷ đồng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước.

Minh Quân


Đàm Thị Thuý Vân

Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/gdp-9-thang-tang-785-doanh-nghiep-thanh-lap-moi-nhieu-gap-ruoi-cung-ky-20525100610360854.htm