GS.TS Mạc Quốc Anh: Việt Nam là điểm đến của rất nhiều nhà đầu tư

Trao đổi trong Talk show Phố Tài chính (The Finance Street) trên VTV8, GS.TS Mạc Quốc Anh cho biết tỷ trọng FDI quay lại thị trường Việt Nam chúng ta đã tăng gần 20%, không chỉ tạo ra công ăn việc làm khi các doanh nghiệp tư nhân phát triển mà quan trọng nhất là sự phát triển của các doanh nghiệp đang trên đà bền vững.

BTV Khánh Ly: Nghị quyết 68 ra đời không chỉ được coi là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền kinh tế tư nhân, mà còn tạo động lực mới mạnh mẽ cho nền kinh tế, ông đánh giá như thế nào về điều này?

GS. TS Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội: Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị được ban hành, chúng tôi đánh giá đây là một dấu mốc và bước ngoặt vô cùng quan trọng về mặt chính trị cũng như về kinh tế. Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế chúng ta đang dựa vào nhiều về khối FDI, đầu tư từ phía bên ngoài vào Việt Nam.

Với Nghị quyết số 68, chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2030 có 2.000.000 doanh nghiệp, nghĩa là cứ 1.000 người dân thì có hai doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân để giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển một cách bền vững, có tính cạnh tranh cao không chỉ là thực hiện tốt trong việc phân phối, cung cấp sản phẩm, dịch vụ với các thị trường nội địa và mong muốn đưa lực lượng doanh nghiệp tư nhân phải hội nhập kinh tế quốc tế một cách thành công.

Một năm trở lại đây, các chuỗi giá trị cung ứng đã bị đứt gãy và để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân Nghị quyết số 68 đã tạo ra một cú hích rất lớn, đó là yêu cầu cắt giảm trên 30% các thủ tục hành chính để tạo ra không gian mới, dư địa mới cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, và hệ thống ngân hàng dành ra những khoản vốn ưu đãi, cắt giảm các điều kiện cho vay cho lực lượng doanh nghiệp tư nhân. Ngoài góc độ về vốn và thị trường, chúng ta cũng yêu cầu các doanh nghiệp tư nhân phải đổi mới về khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế một cách thành công.

Chúng ta cũng yêu cầu các doanh nghiệp tư nhân là chuyển đổi kép, có nghĩa là chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, thị trường kết hợp giữa thương mại truyền thống và thương mại điện tử. Việc chuyển đổi xanh các yêu cầu gần như bắt buộc về tiêu chuẩn, về mặt kỹ thuật, khi doanh nghiệp xuất khẩu vào các thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây là các thị trường cần các doanh nghiệp tư nhân tiên phong dẫn dắt đi đầu để có nhiều sản phẩm dịch vụ cạnh tranh không chỉ thị trường nội địa mà cả thị trường quốc tế.

Thực tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa SME chiếm phần lớn trong số các doanh nghiệp tư nhân trên cả nước, cũng là chiếm phần lớn các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán. Như vậy, ông đánh giá như thế nào về vai trò của các doanh nghiệp SME trong thời gian qua?

Kinh tế tư nhân sau năm 1986 đã phát triển rất nhiều hộ kinh doanh, kinh tế tập thể, kinh tế mậu dịch. Vào năm 1991, chỉ có khoảng vài nghìn doanh nghiệp tư nhân thì đến hiện nay, số lượng và chất lượng của kinh tế tư nhân, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được nâng cao nhiều, đảm bảo về công ăn việc làm, đời sống dân sinh của các cán bộ, công nhân viên, đặc biệt ở những các ngành, lĩnh vực ở các vùng sâu, vùng xa. Chúng tôi đánh giá vai trò của việc hình thành kinh tế tình nhân đã đóng góp một phần lớn trong việc hình thành đội ngũ tiên phong dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và dám chịu trách nhiệm trong nền kinh tế.

Ở trong khối kinh tế tư nhân, họ đã kết hợp với các nhà khoa học, các viện để có nhiều sản phẩm, dịch vụ có áp dụng trình độ khoa học công nghệ, có nhiều sản phẩm về kinh tế tư nhân cũng như chuyển đổi xanh để tiết kiệm, giảm chi phí về tiêu hao năng lượng, tiết kiệm về chi phí. Và một phần nữa tôi đánh giá là kinh tế tư nhân cũng đã đóng góp rất lớn trong việc xây dựng chuỗi giá trị cung ứng, kết nối giữa các tổ chức phi Chính phủ, kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng một chuỗi giá trị cung ứng.

Trước khi có nghị quyết 68 thì cũng đã có rất nhiều giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các chính sách đó đã phát huy tác dụng như thế nào thưa ông?

Trong thời gian vừa qua, chúng tôi đánh giá rất cao về vai trò, vị trí, sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Câu chuyện đầu tiên là kinh tế tư nhân đã có một vai trò nhất định trong việc thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, thể chế, cũng như chủ động tham gia đối thoại với các cơ quan nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành để tháo gỡ hàng loạt khó khăn, vướng mắc.

Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm khoảng 42% GDP cả nước, đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và thu hút trên 85% lực lượng lao động. Hiện nay, Việt Nam có hơn 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp. Riêng tại Hà Nội, mỗi năm có trên 25.000 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn lên khoảng 410.000, trong đó phần lớn là khối SMEs.

Trong 10 năm trở lại đây, Nhà nước đã ban hành hàng loạt chủ trương, nghị quyết, nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn, mà dấu ấn nổi bật là sự tham gia tích cực, đóng góp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân – đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điển hình có thể kể đến: Nghị quyết số 35/NQ-CP (2016) về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Nghị quyết số 10-NQ/TW (2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, và mới đây là Nghị quyết số 68-NQ/TW (2025) về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tư nhân.

Những chính sách này được ban hành không chỉ phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, mà còn thể hiện rõ vai trò đóng góp, phản biện và đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, góp phần tạo môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, công bằng và hiệu quả.

Trong thời gian tới, cùng với Nghị quyết 68 ra đời, với việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp SME thì nền kinh tế vĩ mô sẽ đạt được sự tăng trưởng tích cực như thế nào trong thời gian tới, theo ông?

Về sự đóng góp chung đối với nền kinh tế, đầu tiên về mặt số lượng trong 08 tháng đầu năm 2025, số lượng doanh nghiệp được thành lập mới, số lượng doanh nghiệp quay trở lại thị trường đã tăng trên 20%, dòng vốn đăng ký quay lại thị trường cũng tăng trên 30%. Như vậy, chắc chắn sự đóng góp của kinh tế tư nhân đã thực thi đúng tính hiệu quả, thiết thực, ý nghĩa của Nghị quyết 68.

Trong khi đó, kinh tế của khu vực và trên thế giới có nhiều thị trường hiện nay đang phát triển âm, thị trường kinh tế Việt Nam chúng ta vẫn đang phát triển dương và mục tiêu của chúng ta là tăng trưởng hai con số. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, hệ thống các ngân hàng đang dành rất nhiều chương trình hỗ trợ cụ thể và hiệu quả cho các doanh nghiệp, bởi vì đây là những doanh nghiệp mà gần như là chúng tôi đánh giá là xương sống của nền kinh tế. Và về mặt thị trường chúng ta thấy hiện nay rất nhiều đoàn của các bộ, ngành đã đưa các doanh nghiệp giới thiệu và quảng bá các nhiều sản phẩm ra cộng đồng quốc tế.

Việt Nam chúng ta cũng là một điểm đến của rất nhiều các nhà đầu tư, khi tỷ trọng FDI quay lại thị trường Việt Nam chúng ta đã tăng gần 20%, không chỉ tạo ra công ăn việc làm khi các doanh nghiệp tư nhân phát triển mà quan trọng nhất là sự phát triển của các doanh nghiệp đang trên đà bền vững. Chúng ta đã hỗ trợ để minh bạch về mặt thị trường. Ngay cả thị trường tài chính, trong những tháng gần đây thị thì trường chứng khoán của chúng ta cũng đang được đánh giá là một thị trường tốt trong khu vực và trên thế giới.

Ngoài sự hỗ trợ đến từ Chính phủ, đến từ các ngân hàng hay huy động vốn qua thị trường chứng khoán thì chính doanh nghiệp cũng cần phải đáp ứng những tiêu chí như thế nào để nhận được sự hỗ trợ tối đa cho sự phát triển của doanh nghiệp, qua đó đóng góp nhiều hơn cho kinh tế đất nước?

Chúng tôi nghĩ để đạt được hiệu quả các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp cần đáp ứng nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên đó là chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương chúng ta phải kiến tạo và các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đồng hành cùng doanh nghiệp.

Yếu tố thứ hai là doanh nghiệp phải tự lực. Để đáp ứng tiêu chí này, chúng tôi mong muốn việc đầu tiên, đó là doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản trị, khi chúng ta triển khai tinh gọn bộ máy, chính quyền 2 cấp còn 34 tỉnh thành, thì việc năng cao năng lực quản trị ở đây chính là pháp lý, các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời gian vừa qua đã triển khai, doanh nghiệp phải đáp ứng để thụ hưởng.

Để phát triển bền vững thì cần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn ESG để các doanh nghiệp chúng ta đáp ứng không chỉ thị trường nội địa mà còn thị trường quốc tế. Chúng ta phải thực hiện chuyển đổi kép đó là chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, việc áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở các doanh nghiệp tư nhân trong thời gian vừa qua còn tương đối hạn chế, để bước vào một kỷ nguyên mới, các doanh nghiệp chúng ta phải áp dụng khoa học công nghệ ở trình độ tiên tiến nhất để có nhiều các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, đủ sức cạnh tranh, đi vào các thị trường mà chúng ta đã có nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Yếu tố thứ nữa đó là phải nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân viên, người lao động để đáp ứng được yêu cầu của đổi mới trong thời gian tới. Cuối cùng, tôi nghĩ là doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi giá trị cung ứng ở trong các nước và ở trong khu vực mà chúng ta đã ký kết hợp tác là vô cùng quan trọng. Để làm được điều đó, doanh nghiệp chúng ta phải giữ được uy tín, giữ được niềm tin với khách hàng và đối tác.

Minh Quân

Đàm Thị Thuý Vân

Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/gsts-mac-quoc-anh-viet-nam-la-diem-den-cua-rat-nhieu-nha-dau-tu-205250916111713258.htm