Lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước nhận lương tối đa gấp 4 lần lương cơ bản

Theo Nghị định số 248/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/9, lương cơ bản của lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước từ 30 đến 80 triệu đồng/tháng. Tiền lương tối đa có thể gấp 4 lần lương cơ bản.

Chính phủ ban hành Nghị định số 248/2025/NĐ-CP ngày 15/9/2025 quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước và Kiểm soát viên trong doanh nghiệp nhà nước.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/9. Các chế độ quy định tại Nghị định này được thực hiện từ ngày 1/8/2025. Bãi bỏ Nghị định số 44/2025/NĐ-CP ngày 28/2/2025 của Chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp Nhà nước.

Theo đó, mức tiền lương, thù lao tối đa được quy định theo chức danh chủ tịch, thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, trưởng ban kiểm soát, kiểm soát viên tính bình quân theo tháng.

Việc xác định mức tiền lương, thù lao, tiền thưởng tối đa làm cơ sở để thực hiện mức tiền lương, thù lao, tiền thưởng cụ thể được căn cứ vào các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh thực hiện hằng năm của doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng theo quy định và chức danh thực tế đảm nhận của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, Kiểm soát viên, người đại diện vốn tại doanh nghiệp.

Mức lương cơ bản từ 30-80 triệu đồng/tháng

Nghị định 248/2025/NĐ-CP quy định mức lương cơ bản của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên chuyên trách như sau:

Lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước nhận lương tối đa gấp 4 lần lương cơ bản- Ảnh 1.

Việc áp dụng các mức lương cơ bản của nhóm I và nhóm II được thực hiện theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này.

Mức tiền lương tối đa có thể gấp 4 lần mức lương cơ bản

Nghị định 248/2025/NĐ-CP quy định mức tiền lương tối đa của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên chuyên trách được xác định trên cơ sở mức lương cơ bản nêu trên và lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp như sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp có lợi nhuận và lợi nhuận thực hiện không thấp hơn kế hoạch thì mức tiền lương tối đa bằng 02 lần mức lương cơ bản, nếu lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch thì thực hiện theo nguyên tắc 1% lợi nhuận vượt so với kế hoạch, được tính thêm 2% mức tiền lương nhưng không quá 20% mức tiền lương tính trên cơ sở 02 lần mức lương cơ bản. Trường hợp lợi nhuận thực hiện thấp hơn kế hoạch thì mức tiền lương tối đa được tính bằng 80% nhân với 02 lần mức lương cơ bản và nhân với tỷ lệ lợi nhuận thực hiện so với lợi nhuận kế hoạch, nhưng không thấp hơn 80% mức lương cơ bản.

Thứ hai là doanh nghiệp không có lợi nhuận thì mức tiền lương tối đa bằng 70% mức lương cơ bản.

Thứ ba doanh nghiệp lỗ hoặc giảm lỗ thì mức tiền lương tối đa được xác định theo quy định sau: Trường hợp lỗ thì mức tiền lương tối đa bằng 50% mức lương cơ bản; Trường hợp giảm lỗ (kể cả không có lợi nhuận) thì căn cứ mức độ giảm lỗ so với kế hoạch để xác định mức tiền lương tối đa bằng 80% mức lương cơ bản;

Đối với trường hợp Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên chuyên trách được cơ quan đại diện chủ sở hữu cử thực hiện nhiệm vụ tại doanh nghiệp lỗ do đang thực hiện tái cơ cấu, xử lý tồn tại, lỗ kế hoạch thì mức tiền lương tối đa sau khi xác định theo điểm a hoặc điểm b khoản này, được tính thêm không quá 50% mức tiền lương tối đa đã xác định.

Đặc biệt, doanh nghiệp có lợi nhuận cao hơn 2-4 lần trở lên so với chỉ tiêu lợi nhuận tối thiểu theo quy định, lãnh đạo có thể nhận mức lương tối đa bằng 2,5 đến 4 lần mức lương cơ bản. Như vậy, chức danh chủ tịch hội đồng quản trị hoặc chủ tịch hội đồng thành viên của doanh nghiệp nhóm 1, có thể nhận mức lương tối đa khoảng 320 triệu đồng/tháng.

Về tiền thưởng, tiền thưởng của thành viên hội đồng, kiểm soát viên được xác định trong quỹ tiền thưởng trích từ quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định tại Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, quy định của Chính phủ về quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và quy chế thưởng của doanh nghiệp.

Tiền thưởng cụ thể hằng năm của từng thành viên hội đồng, kiểm soát viên tối đa không vượt quá số tháng tiền lương của doanh nghiệp được trích để lập quỹ khen thưởng, phúc lợi nhân với tỷ lệ phân bổ giữa quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo quy định hoặc quy chế của doanh nghiệp và nhân với mức tiền lương bình quân thực hiện theo tháng được hưởng tại doanh nghiệp của từng thành viên hội đồng, kiểm soát viên.

Hoàng Lam (t/h)

Hà Thị Lưu Luyến

Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/lanh-dao-doanh-nghiep-nha-nuoc-nhan-luong-toi-da-gap-4-lan-luong-co-ban-205250918124117536.htm