Theo số liệu thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, nhập khẩu than của Việt Nam trong tháng 8 đạt gần 4,3 triệu tấn với trị giá hơn 376 triệu USD, giảm so với tháng trước.
Tính trong 8 tháng đầu năm, nước ta đã nhập khẩu hơn 47 triệu tấn than, trị giá 4,7 tỷ USD, tăng 3,4% về lượng nhưng giảm 17,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024, do giá nhập khẩu trung bình giảm hơn 20%.
Việc giá giảm nhưng lượng nhập tăng cho thấy nhu cầu tiêu thụ than trong nước vẫn cao, đặc biệt trong bối cảnh nhiệt điện vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống năng lượng quốc gia.
Indonesia đang là nhà cung cấp than lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay, với hơn 18,4 triệu tấn, trị giá hơn 1,4 tỷ USD, giảm về lượng nhưng tăng về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá bình quân đạt 79 USD/tấn, thấp hơn mặt bằng chung.
Úc là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai, cung cấp cho Việt Nam hơn 15,5 triệu tấn, trị giá hơn 1,8 tỷ USD, tăng 22% về lượng và giảm 9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân giảm hơn 26%.
Đáng chú ý, Nga đang là nhà cung cấp lớn thứ 3 cho nước ta trong 8 tháng đầu năm với hơn 4,6 triệu tấn, trị giá hơn 586 triệu USD, tăng 11% về lượng nhưng giảm 19% về trị giá so với cùng kỳ. Nguyên nhân khiến kim ngạch giảm là do giá nhập khẩu bình quân giảm gần 28%, tương đương 127 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê của ngành Hải quan, nhập khẩu than đá của Việt Nam đã có sự tăng mạnh kể từ năm 2021 trở lại đây. Sở dĩ nhập khẩu than tăng mạnh sau mỗi năm là do nhu cầu tiêu dùng với mặt hàng này tăng đối với nhiều ngành sản xuất, nhiều nhất là nhiệt điện, xi măng... Đặc biệt, do sản lượng điện than sẽ huy động ở mức cao trong mùa khô nên dự báo lượng than nhập khẩu còn tiếp tục tăng.
Việt Nam là một trong 5 nền kinh tế có mức tiêu thụ than đá cao nhất ở Đông Nam Á. Việt Nam phải nhập khẩu than dù là nước sản xuất mặt hàng này lâu đời là do nguồn cung trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Mặt khác, do trữ lượng dễ khai thác trong nước đang dần cạn kiệt, nhiều mỏ buộc phải đào sâu hơn, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả. Trong khi đó, nhập khẩu than giá rẻ giúp doanh nghiệp linh hoạt về nguồn cung, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất.
Hiện than nhập khẩu sẽ bị áp dụng mức thuế suất thông thường (MFN) khoảng 3-5%. Mức thuế MFN cụ thể phụ thuộc vào loại than và mã hàng tương ứng.
Năm nay, Việt Nam dự kiến sản xuất khoảng 37 triệu tấn than sạch, trong khi nhu cầu tiêu thụ lên tới 50 triệu tấn, chủ yếu phục vụ các nhà máy nhiệt điện. Do đó, Việt Nam tiếp tục tăng cường nhập khẩu, đặc biệt là than nhiệt từ Indonesia và Australia. Mặc dù có xu hướng chuyển sang năng lượng tái tạo, than vẫn đóng vai trò chủ lực trong cơ cấu năng lượng quốc gia đến năm 2030.
Mới đây, Chính phủ đã giao nhiệm vụ nhập khẩu 5 triệu tấn than Lào về Việt Nam trong thời gian tới. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã chỉ đạo Công ty CP Kinh doanh than Miền Bắc đề xuất đầu tư dự án Kho trung chuyển, chế biến và pha trộn than Quảng Trị tại phía Đông Nam Bến cảng Mỹ Thủy, thuộc Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị.
Khánh Vy
Nguyễn Đức Hải