Tôi hẹn gặp chị Hà Lâm Tú Quỳnh vào buổi sáng thứ Hai đầu tuần. Đó là thời điểm hiếm hoi chị rảnh, chủ yếu để xử lí sổ sách kế toán, hóa đơn và giấy tờ đang ngổn ngang của tiệm bánh mì mới mở chưa đầy một tháng. Những ngày còn lại, chị gần như quay cuồng với việc đứng bếp. Cú rẽ từ Giám đốc truyền thông cấp cao của Google sang làm chủ tiệm bánh mì giữa trung tâm của đảo quốc sư tử của chị là một câu chuyện lạ tai với nhiều người.
Chỉ mới tháng 3, người phụ nữ này vẫn còn ngồi trong văn phòng Google tại Singapore – móng tay sơn bóng, vòng ngọc trai của mẹ đeo trên cổ, khuôn mặt rạng rỡ nhờ một cuộc sống cân bằng và đầy tự tin. Gần 6 tháng sau, chị tự trào trên trang Facebook cá nhân: "Kiệt sức, móng tay và tóc đều cắt rất ngắn, buộc gọn dưới mũ lưới, rửa mặt buổi tối cũng là một trận chiến chứ đừng nói đến trang điểm hay skincare, không trang sức, không còn khái niệm work-life balance… Haha, chào mừng đến với thế giới khởi nghiệp. Let's rock!".
Sự đối lập ấy vừa dí dỏm vừa chân thật như cách chị kể về hành trình của mình: nhiều thử thách, áp lực, bất ngờ, nhưng cũng đầy niềm tin để bắt đầu học hỏi một thứ mới.
– Với những người quen biết một Hà Lâm Tú Quỳnh – Giám đốc truyền thông Google Việt Nam, câu hỏi lớn nhất có lẽ là vì sao chị rời Google để đi bán bánh mì ở Singapore? Chắc hẳn chị là một người nấu ăn rất ngon.
Ồ xin khẳng định là tôi không thích nấu ăn, tôi chỉ thích ăn ngon thôi. (cười)
Khi làm việc và sinh sống ở Singapore, lựa chọn món Việt "đúng vị" gần như không có. Trước kia tôi vẫn bay đi bay về công tác nên còn "chữa cháy" được, nhưng COVID-19 ập tới thì không đi đâu được nữa. Ở Singapore khi đó không có nhà hàng Việt nào khiến tôi thấy vừa miệng, thế là tôi buộc phải vào bếp – "muốn ăn thì lăn vào bếp".
Bạn bè ăn rồi khen và muốn đặt mua nhưng tôi từ chối vì tôi cũng "chảnh" lắm, tôi không có thời gian. Nhưng rồi mọi người năn nỉ nấu cho gia đình thì nấu dư vài phần, họ sẽ tự đặt ship và trả tiền. Dần dần tôi nhận ra ở Singapore có một cơ hội: chỉ cần nấu đúng vị, không lai tạp, làm chỉn chu đã khác biệt. Và thế là, mong muốn mở cửa hàng bánh mì được tôi quyết liệt theo đuổi bằng thông báo nghỉ việc với công ty từ tháng 9/2024. Trong 06 tháng sau đó, tôi giúp công ty thực hiện nốt các dự án lớn, lên kế hoạch cho năm 2025 và tham gia tìm kiếm người thay thế cho công ty.
Nhìn ra thế giới, tôi thấy Việt Nam chưa có một thương hiệu bánh mì hay phở mang tầm quốc tế theo cách nhất quán. Ở Mỹ có Lee's Sandwiches, bánh mì Đức Hương… nhưng chưa có một thương hiệu đồng bộ như McDonald's hay Subway.
Thực tế ở Singapore cũng có những tiệm bánh mì khá "điển hình" nhưng chưa chỉn chu. Họ chạy quảng cáo bằng cách dùng AI tạo nội dung, copy–paste 100 mẫu thì giống nhau, post nào cũng mở đầu bằng một câu vô thưởng vô phạt, không nêu rõ được họ muốn bán cái gì. Thương hiệu trên bao bì lúc thì ghi "Bánh Mì XYZ", lúc lại "Bánh Mì ABC" và lúc khác thì lại là một cái tên khác– không nhất quán. Hay nhiều nơi nhồi nhét bên trong bánh mì đến mức không khép nổi, người dân bên này còn gọi vui là "Bánh Mì Chàng Hảng".
Đó là những điều tôi muốn tránh khi xây dựng một thương hiệu chỉnh chu: từ hình ảnh, cách đặt tên đến chất lượng sản phẩm. Tôi muốn xây dựng một thương hiệu chuyên về bánh mì Việt Nam được nhìn nhận như một món ăn có giá trị, tinh tế, đủ tiêu chuẩn để bước ra thị trường quốc tế, chứ không phải chỉ là món ăn đường phố bình thường.
– Vì sao chị chọn tên "Bánh Mì Society", thay vì gắn với tên tuổi cá nhân?
Từ khi đi làm đến lúc rời Google, tôi chưa bao giờ phải mặc đồng phục – tôi được tự do, có phong cách riêng. Bây giờ làm bánh mì, tôi tự "thiết kế đồng phục" cho chính mình. Trước đây, khi làm cho các công ty, tính cá nhân của tôi cao – vì tôi phải có quan điểm cụ thể và rõ ràng. Nhưng lúc này, khi chọn đồ ăn Việt, tôi thấy giá trị và thương hiệu của bánh mì cao hơn thương hiệu cá nhân của tôi. Bánh mì thuộc về Việt Nam, đã có trong từ điển và được công nhận khắp thế giới. Tôi muốn quảng bá điều đẹp nhất, hay nhất của Việt Nam, nên thương hiệu phải ưu tiên "bánh mì" trước tôi.
"Society" là một xã hội thu nhỏ của những người yêu bánh mì – không chỉ người Việt mà còn rất nhiều khách quốc tế, thậm chí chiếm đa số. Tôi muốn tạo một hội dành cho những ai thích bánh mì ngon. Tên gọi vừa có tính "đóng" – vì phải thực sự yêu bánh mì – lại vừa "mở" – bất kỳ ai yêu bánh mì đều bước vào được. Tôi cũng muốn tên dễ đọc với mọi ngôn ngữ, và có thể mở rộng tới những quốc gia khác.
– Vậy khi bắt đầu mở tiệm bánh mì, mọi người xung quanh chị phản ứng ra sao? Nếu có người bảo "một cựu giám đốc Google đi bán bánh mì" là lãng phí, chị thấy thế nào?
Chắc đồng nghiệp là những người sốc nhất. Sếp của tôi ở Google còn sợ tôi nghỉ việc để chuyển sang công ty khác bởi thời điểm đó ai cũng lựa chọn "an phận" giữa làn sóng sa thải.
Nhiều người vẫn nghĩ nấu ăn là thứ đơn giản nhất để kinh doanh, không cần kỹ năng cao và chẳng cần vốn lớn. Nhiều cô dâu Việt sang Singapore nếu không có bằng cấp hay kỹ năng sẽ làm phục vụ hoặc mở quán bán đồ ăn Việt – đó là lợi thế lớn nhất của họ nếu so người Singapore.
Nhưng với tôi, không phải đơn giản là "mở một tiệm bán bánh mì". Tôi muốn xây dựng một thương hiệu – như Starbucks không chỉ bán một ly cà phê. Nếu chỉ để bán bánh mì kiếm lời, tôi đã chọn cách đơn giản hơn rất nhiều: thuê mặt bằng rẻ hơn, vận hành nhẹ hơn, vòng quay tiền nhanh hơn. Nhưng tôi muốn một thương hiệu chỉn chu về đồ ăn Việt, một câu chuyện thương hiệu có thể đi xa, có khả năng nhượng quyền ở nhiều nước. Nói nghe "to" vì chưa ai giải bài toán này đến cùng, nhưng tôi tin – và muốn thử sức với một thử thách đủ lớn để dấn thân.
Thực tế giai đoạn đầu rất cực. Vào vị trí doanh nghiệp vừa và nhỏ, tôi phải lo từ đầu đến cuối, không có cả "ban bệ" hỗ trợ như trong tập đoàn lớn như Google. HR bây giờ chính là chồng tôi phụ tuyển người. Từ lúc lấy mặt bằng đến ngày bán, anh ấy phải tạm gác công việc riêng là Giám đốc cho một start-up tại Việt Nam, chuyển thành làm full-time, thậm chí là overtime cho cửa hàng của vợ. Nói thật là không chỉ "lãng phí" một mình tôi đâu – mà cả anh ấy nữa.
Chi phí đầu tư không chỉ là mặt bằng, nhân công, nguyên liệu, mà còn là thời gian của hai lao động chất xám bỗng trở thành lao động phổ thông – đứng nướng thịt, rửa rau, thái hành, gói bánh mì. Nhưng về dài hạn, mục tiêu là tạo một thương hiệu bánh mì đúng vị, hiện đại, tối giản – thứ mà người Việt có thể tự tin giới thiệu với bạn bè quốc tế.
– Chị nói rằng muốn tự tin giới thiệu bánh mì Việt đến bạn bè quốc tế. Vậy chị làm gì để "giữ nguyên bản vị" nhưng vẫn "go global" được?
Tôi thấy một số tiệm Việt ở Singapore "local" quá nên khó "go global". Giống như bạn hỏi tôi: làm sao vừa giữ bản sắc trong một công ty nước ngoài với văn hóa đa quốc tịch như Google, lại vừa có tiếng nói riêng? Với bánh mì, tôi giữ cái cốt lõi – công thức, vị – nhưng thay đổi cách bán, cách dựng trải nghiệm để không "quá local", để người nước ngoài dễ tiếp nhận mà bản vị không mất đi. Đó là bài toán tôi đang giải.
Singapore là môi trường đủ quốc tế và đủ khắt khe: đa quốc tịch, trụ sở của nhiều công ty công nghệ lớn, GDP đầu người cao, sức mua mạnh, đòi hỏi về chất lượng, tệp khách hàng vô cùng khó tính, đến độ chính bản thân người Singapore còn tự trào phúng với nhau là 'môn thể thao quốc dân ở Singapore là: than phiền'. Ở đây có một "áp lực tích cực": bạn không thể làm thứ mà bạn không tin, không yêu. Tôi tin và yêu bánh mì Việt. Tôi tin ẩm thực Việt đủ ngon, đủ lành mạnh để xứng đáng vị thế tốt hơn.
Đã có những thương hiệu bánh mì Việt phát triển và có nhiều chi nhánh ở Singapore. Nhưng tôi vẫn mong có sự đồng nhất, nhận diện rõ ràng – gắn bánh mì với một thương hiệu thực sự. Chúng ta đang bỏ phí cơ hội phát triển thương hiệu lớn cho hai "sản phẩm quốc gia" là phở và bánh mì. Subway có thể tạo thói quen ăn mỗi ngày – vậy tại sao bánh mì Việt không thể? Bí quyết là làm sao để khách có thể quay lại liên tục, nếu quá "thuần Việt" theo cách khó tiếp cận, họ sẽ không quay lại thường xuyên.
– Phản hồi của khách nước ngoài thế nào khi lần đầu ăn thử? Có câu chuyện nào khiến chị nhớ?
Có rất nhiều. Một người bạn làm ở một công ty kiểm toán "Big Four" từng mua 30 ổ bánh mì cho cả team – trong đó có nhiều quốc tịch khác nhau. Một bạn mang về cho chồng, vốn là người nước ngoài mê bánh mì – và anh ấy nói bánh ở tiệm tôi "giống hệt" bánh mì từng ăn ở Việt Nam. Lời nhận xét ấy là điều mà tôi luôn mong muốn nhận được từ những ngày đầu mở tiệm.
Rồi có khách thậm chí còn quay lại với chính chiếc túi giấy mua lần trước để tái sử dụng. Có vị khách tới hơn 5 lần dù cửa hàng mới mở gần 1 tháng. Có lần một đồng nghiệp cũ của tôi mua về, tôi bận nên không kịp hỏi phản hồi. Một tuần sau bạn quay lại đặt đơn rất lớn cho tiệc riêng mừng Quốc Khánh Singapore, lúc đó tôi mới kịp hỏi "lần trước ăn thế nào?". Bạn cười: "Khách quay lại, đặt đơn hàng thế là đủ biết bánh mì rất ngon".
–Tự mình khởi nghiệp trong một môi trường đắt đỏ như Singapore, không hề gọi vốn, chị phải xoay xở ra sao?
Chuyển từ Big Tech sang F&B, tôi gần như học lại mọi thứ. Chỉ riêng việc làm sao để ổ bánh mì ngon đã là một chuỗi thử nghiệm: vỏ không giòn thì không ngon, giòn quá lại vụn. Ở Việt Nam thường bọc bằng bao bố, nhưng Singapore cấm vì lý do vệ sinh cực khắt khe. Tôi phải tự mày mò chất liệu bao gói đủ thoáng để bánh không ỉu, đủ kín để không khô – mà vẫn đúng quy định. Việc "nhìn đơn giản" nào cũng hoá ra phức tạp. Để làm được sự đơn giản, bạn phải chấp nhận một mức độ phức tạp rất lớn ở phía sau.
Khởi nghiệp ở nơi đắt đỏ như Singapore, tôi không nuôi tham vọng "một mình làm hết". Tôi cần sự hỗ trợ của nhiều chuyên gia nếu muốn phát triển thương hiệu ra ngoài Singapore và giữ sự đồng nhất.
Giai đoạn đầu, mục tiêu của tôi là phát triển thật "đúng chuẩn" tại thị trường khắt khe này: quy trình – công đoạn – vận hành phải chuẩn, để từ cửa tiệm đầu tiên có thể trích ra "bộ chuẩn" đem đi nơi khác mà hương vị không sai lệch. Muốn thành chuỗi sẽ cần vốn, nguyên liệu, mạng lưới. Nhiều bạn bè ở các nước đã ngỏ lời, nhưng tôi chưa vội. Khi nào tôi thật sự hài lòng về quy trình và vận hành, tôi mới tính bước tiếp theo.
– Một ngày của chị bây giờ giống và khác gì so với khi còn ở Google? Chị có cảm thấy "hạnh phúc" hơn không?
Khó mà so sánh trực tiếp vì mỗi giai đoạn cuộc đời, con người có một sự tìm kiếm khác nhau. Tôi mãn nguyện với những gì đã có trong sự nghiệp truyền thông – một "đỉnh" trong hành trình phát triển bản thân, và tôi đã dành hơn 20 năm cho nó. Bây giờ tôi đang làm điều mình thích thứ hai: có sự tự do, có hoài bão riêng, may mắn gặp những người cùng chí hướng sẵn sàng bỏ thời gian, tiền bạc cho điều chưa chắc lời lỗ. Tôi hài lòng vì được làm thứ mình ấp ủ. Khi làm cho công ty, tôi làm tốt phần việc của mình; còn ở đây, mỗi sự chia sẻ và giúp đỡ tôi nhận được đều rất ý nghĩa.
Như một chia sẻ của tôi trên facebook, chẳng còn những hình ảnh chỉnh chu của 6 tháng trước, giờ đây mỗi ngày thay bằng sự kiệt sức, móng tay và tóc đều cắt ngắn, buộc gọn dưới mũ lưới, rửa mặt buổi tối cũng là một trận chiến chứ đừng nói đến trang điểm hay skincare, không trang sức, không còn khái niệm work-life balance. Nhưng tôi vẫn hài lòng và có niềm tin về việc mình đang làm.
– Nếu chọn một lời khuyên cho những ai đang cân nhắc khởi nghiệp, rẽ ngang theo đuổi đam mê, chị sẽ nói gì từ chính trải nghiệm của mình?
Đừng làm theo cảm hứng. Phải nghiên cứu thị trường kỹ, chuẩn bị tài chính vững chắc – vì bạn sẽ phải dồn toàn lực cho đam mê và cho business; nếu không, căng thẳng sẽ nhân đôi, nhân ba. Nên có hai – ba người đồng hành để phản biện, để nhắc nhở bạn, và để cùng chia sẻ rủi ro. Hãy khiêm tốn, học hỏi những người đi trước. Tôi không dám nói mình đã làm tốt hay chưa, nhưng những điều ấy giúp tôi làm được tới hiện tại.
Tôi xin kể câu chuyện hồi làm ở Google, mỗi năm đội ngũ đều có meeting offsite ở trụ sở chính. Ở đó, người ta không kể chuyện thành công; họ đem thất bại lên bàn và thảo luận. Ai càng có nhiều thất bại, lại càng được tán thưởng vì người dám mạo hiểm mới có 'cơ hội thất bại'. Không dám mạo hiểm hay chấp nhận rủi ro, bạn sẽ mãi ở trong vòng tròn an toàn và không bao giờ thất bại; nhưng nếu dám thử, thất bại có thể đến – và đó là những bài học vô cùng giá.
Google toàn là sao hạng A, ai cũng có cái tôi rất cao, cá tính và ai cũng muốn mình thành công, không ai muốn thất bại. Vậy nên khi họ nói được ra những điều đó thực sự ấn tượng, nó ảnh hưởng tới cách tôi suy nghĩ và lựa chọn. Đúng như câu tục ngữ của Việt Nam "Thất bại là mẹ thành công", nhưng họ làm thật chứ không chỉ là lý thuyết suông.
Vài năm sau khi gặp lại, có thể tôi đã có thêm nhiều cửa hàng Bánh mì Society, mở rộng chuỗi sang các quốc gia khác. Nhưng cũng có thể, tôi dẹp tiệm, lại quay trở về với công việc văn phòng, tiếp tục 'làm việc cho tư bản' thì sao. Nếu vậy, tôi đã dám thử và dám thất bại. (cười)
– Quay trở lại công việc cũ là Giám đốc Truyền thông của Google tại Việt Nam thời điểm trước, đâu là điều khiến chị tâm đắc nhất trong chặng đường đó?
Khi bắt đầu vào Google, điều khiến tôi ấn tượng nhất là văn hoá "trust and delegate" – tin tưởng và trao quyền. Quy trình tuyển dụng ở Google rất khắt khe, tỷ lệ cạnh tranh còn khó hơn vào nhiều trường thuộc nhóm Ivy League. Họ đặt ra quy trình như vậy để chắc chắn người được nhận sẽ đáp ứng đúng yêu cầu của vị trí. Và một khi đã tuyển, họ tin rằng bạn sẽ làm tốt nhất ở vai trò ấy; bạn được toàn quyền quyết định hướng đi, công việc của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định đó.
Mỗi lần tôi chuyển việc trong đời đều là khi nhận thấy bản thân đã đủ "chín" ở vai trò đó. Trước đây tôi làm truyền thông cho khách sạn – nhà hàng, sau đó chuyển sang ngân hàng HSBC; rồi đến Google với gần 10 năm gắn bó – mỗi lần đều là một ngành hoàn toàn khác. Tôi thuộc kiểu người khi đã hiểu nghề, thấy tự tin và thoải mái trong vai trò thì sẽ muốn học điều mới, thử thách mới.
Dù vậy, khi làm bất cứ công việc gì, tôi luôn quan niệm phải thực sự "yêu" nghề, nhờ đó mà tôi có thể tiến xa hơn.
– Ở một vị trí vừa áp lực vừa có tầm ảnh hưởng như vậy, chị học được gì về việc làm truyền thông toàn cầu mà vẫn giữ được bản sắc Việt Nam?
Tôi là người Việt Nam 100% đầu tiên làm vị trí này từ trước tới nay. Ở giai đoạn của tôi, thị trường bắt đầu cần những người có 5–10 năm kinh nghiệm bài bản về PR và truyền thông. Trong khi đó, ở Việt Nam thế hệ của tôi hầu như chưa có đào tạo thực sự chuyên sâu nên cơ hội cho tôi thể hiện là rất lớn.
Google vận hành với một tốc độ rất nhanh. Dù tôi tự tin rằng mình hiểu tác phong, hiểu cách làm việc, nhưng thực sự giai đoạn đầu tôi bị chới với. Có quá nhiều thứ phải bắt kịp: nhịp độ, văn hoá, cách phản biện. Để triển khai điều gì cho Việt Nam, tôi phải đấu tranh dữ lắm. Họ tin tưởng và trao quyền, nhưng đi kèm là trách nhiệm và phản biện, bảo vệ quan điểm đến cùng: tại sao làm thế, mục tiêu gì, đo lường thế nào, mà cuối cùng vẫn phải giữ nội dung là điều mình muốn truyền tải về Việt Nam. Cách nói, phương tiện, kênh truyền tải có thể khác, nhưng cái "sắc Việt" thì tôi không đổi.
Có lúc căng thẳng, tôi quay lại câu hỏi đầu tiên: "Vì sao họ tuyển mình?" Câu trả lời giúp tôi lấy lại thăng bằng. Không thể chỉ mang niềm tự hào Việt Nam "sương sương" rồi đòi làm việc trong một cỗ máy toàn cầu, nơi con người được rèn cách phản biện từ khi còn rất nhỏ. Mình biết rõ giá trị Việt Nam, biết người Việt nghĩ gì, vận hành ra sao – nhưng nếu không lập luận chặt chẽ, nói bằng logic, không bảo vệ được quan điểm, thì người khác sẽ không tin.
– Trước đây, ngành công nghệ rất mở và tràn đầy cảm hứng. Hiện nay, nhiều người lại rời Big Tech để tìm sự cân bằng hơn. Theo chị, điều gì đã thay đổi?
Về chủ quan, với mỗi người sẽ đến lúc hành trình công việc đến giai đoạn trưởng thành; bạn sẽ muốn tìm thử thách mới. Tôi đã ở Google gần 10 năm – đó là một quãng dài để nhìn lại và đi tiếp.
Về khách quan, sau đại dịch là một "sự thức tỉnh". Làn sóng sa thải diễn ra ở nhiều công ty công nghệ. Trước giờ ở Google gần như không có chuyện ấy; họ tuyển và giữ người rất kỹ vì chi phí tìm kiếm – đào tạo nhân tài quá cao, lại luôn cạnh tranh khốc liệt với các hãng công nghệ khác. Nhưng rồi kinh tế đi xuống, doanh nghiệp phải tinh gọn theo áp lực từ cổ đông. Khi Google buộc phải sa thải, rất nhiều người bàng hoàng. Mọi người nhận ra quyền quyết định số phận không phải lúc nào cũng nằm trong tay mình. Đây là công ty kinh doanh – có thể bạn rất giỏi, nhưng vị trí của bạn không còn cần nữa. Và vài năm gần đây là sự phát triển của AI đang dần 'vẽ lại' thị trường lao động từ cao cấp đến trung cấp. Không chỉ các bạn trẻ, mà chính bản thân tôi vẫn không ngừng tự hỏi còn điều gì mà AI chưa làm được?
Chủ quan mà nói, tôi đã làm môi trường doanh nghiệp hơn 20 năm và đang ở vị trí duy nhất người Việt trong team, ít nhất năm năm nữa vị trí ấy cũng không thay đổi. Nhưng riêng bản thân tôi, đã đến một thời điểm tôi muốn làm điều mình luôn mơ ước. AI có thể làm được rất nhiều việc cho bạn nhưng rõ ràng chỉ có bạn mới là người đủ dũng cảm và đam mê để theo đuổi một giấc mơ, một hoài bão. AI không thể thay bạn mơ, không thể thay bạn đam mê và thấm được ý nghĩa của hai từ 'dấn thân'. Tôi coi đây là thời điểm vàng để tự tin bước vào một ngã rẽ khác, rời xa 'con đường mòn' mà tôi đã đi hơn 20 năm và để lao vào thực hiện điều mình đã ấp ủ từ lâu.
Bài: Khánh Vy - Thiết kế: Hải An
Nguyễn Đức Hải