Điều 169 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tuổi nghỉ hưu. Theo đó, người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ điều kiện nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Như vậy, theo lộ trình, năm 2024, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 61 tuổi đối với lao động nam và 56 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ.
Dù vậy, có những trường hợp cán bộ, công chức, viên chức được phép nghỉ hưu cao hơn tuổi nghỉ hưu quy định.
Cụ thể, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/2022/NĐ-CP cho phép áp dụng quy định nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với viên chức có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức làm việc trong một số lĩnh vực sự nghiệp đặc thù.
Theo nghị định trên, viên chức có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn quy định về tuổi nghỉ hưu nhưng không quá 5 năm (60 tháng), tính từ thời điểm viên chức đủ tuổi nghỉ hưu.
Viên chức có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nếu đơn vị mà viên chức này công tác có nhu cầu. Đồng thời, viên chức phải đảm bảo có đủ sức khỏe; không đang trong thời gian bị xem xét xử lý kỷ luật, bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành kỷ luật về đảng, chính quyền và có đơn đề nghị được kéo dài thời gian công tác.
Quy định này chỉ được áp dụng với 4 nhóm viên chức cụ thể được quy định tại Điều 2 Nghị định số 50/2022/NĐ-CP.
4 nhóm đó bao gồm: Viên chức có học hàm giáo sư, phó giáo sư; viên chức giữ chức danh nghề nghiệp có yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo là tiến sĩ hoặc chuyên khoa II; giám định viên pháp y; giám định viên pháp y tâm thần; viên chức có chuyên môn, kỹ thuật cao trong một số lĩnh vực sự nghiệp đặc thù theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Năm 2024, độ tuổi nghỉ hưu theo quy định đối với lao động nam sẽ là 61 tuổi, lao động nữ sẽ là 56 tuổi 4 tháng. Như vậy, trong năm 2024, những viên chức thuộc diện được nghỉ hưu ở tuổi cao hơn quy định có thể làm việc đến năm 66 tuổi (đối với lao động nam) và 61 tuổi 4 tháng (đối với lao động nữ).
Trong thời gian nghỉ hưu ở tuổi cao hơn quy định, viên chức chỉ làm nhiệm vụ chuyên môn, không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và không được bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo.
Ngoài viên chức có trình độ chuyên môn cao, các cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý cũng được nghỉ hưu ở độ tuổi cao hơn theo quy định tại Nghị định số 83/2022/NĐ-CP. Quy định này được áp dụng cho 2 nhóm cán bộ, công chức.
Nhóm 1: Gồm cán bộ, công chức giữ các chức vụ chức danh như:
Phó trưởng ban, cơ quan Đảng ở trung ương; Phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Phó tổng biên tập Báo Nhân Dân; Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản(
Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt Trận tổ quốc Việt Nam;
Phó chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó chủ nhiệm các ủy ban của quốc hội; phó chủ nhiệm văn phòng quốc hội;
Phó chánh án toà án nhân dân tối cao, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Thứ trưởng, cấp phó của người đứng đầu cơ quan ngang bộ;
Phó chủ nhiệm văn phòng chủ tịch nước; phó tổng kiểm toán nhà nước...
Nhóm 2: Gồm công chức được bổ nhiệm chức danh thẩm phán, tòa án nhân dân tối cao, kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngược lại, Bộ luật Lao động cũng nêu những trường hợp được nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với quy định. Việc này được thể hiện rõ ở Điều 5 Nghị định số 135/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu. Theo đó, người lao động thuộc các trường hợp dưới đây có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác:
- Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTB&XH ban hành.
- Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021.
Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH ban hành danh mục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
- Người lao động có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTB&XH ban hành và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 15 năm trở lên.
Hà Ly
Link nội dung: https://antt.nguoiduatin.vn/quy-dinh-ve-doi-tuong-duoc-lam-viec-toi-66-tuoi-va-nghi-huu-som-nam-2024-2059750.htm