Thứ 6, ngày 16 tháng 8, 2019, 8:36:21 Chiều

Đề xuất 6 trường hợp ngân hàng, tổ chức tín dụng được 'can thiệp sớm'

Hà Thị Lưu Luyến

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình bày Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), trong đó quy định 6 trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm.

Ngày 5/6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã trình bày tờ trình về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

de-xuat-6-truong-hop-ngan-hang-to-chuc-tin-dung-duoc-can-thiep-som-1685955988.jpg
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) trong phiên họp sáng 5/6. Ảnh: Nhân Dân

Thống đốc cho biết, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) gồm 13 Chương, 195 Điều. So với Luật hiện hành, dự thảo giữ nguyên 48 điều, sửa đổi, bổ sung 144 điều và bổ sung mới 10 điều.

Một trong số các nội dung quan trọng được đưa vào Dự thảo lần này đó là quy định về can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, phá sản, giải thể tổ chức tín dụng (TCTD).

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia và để đảm bảo có cơ chế ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt có nguy cơ ảnh hưởng, đe dọa an toàn hệ thống, dự thảo Luật bổ sung quy định về các biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt.

Cụ thể, Điều 144 dự thảo luật đã quy định 6 trường hợp TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm.

Thứ nhất, không duy trì được tỉ lệ khả năng chi trả như quy định tại luật này trong thời gian 3 tháng liên tục;

Thứ hai, không duy trì được tỉ lệ an toàn vốn quy định tại luật này trong thời gian 6 tháng liên tục;

Thứ ba, số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 20% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc theo kết luận thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

Thứ tư, xếp hạng dưới mức trung bình trở xuống theo quy định của NHNN;

Thứ năm, có nguy cơ mất khả năng chi trả, nguy cơ mất khả năng thanh toán theo quy định của NHNN;

Thứ sáu, bị rút tiền hàng loạt khi có nhiều người gửi tiền cùng đến rút tiền dẫn đến tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả và không tự khắc phục được theo quy định của NHNN.

Tùy theo thực trạng, tính chất, mức độ rủi ro của tình trạng cần can thiệp sớm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước áp dụng một hoặc một số các biện pháp can thiệp sớm như: hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản; hạn chế hoạt động kinh doanh không hiệu quả, hạn chế các giao dịch lớn, có rủi ro cao; đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác có dấu hiệu vi phạm pháp luật; hạn chế thẩm quyền quyết định trong hoạt động kinh doanh của người quản lý, người điều hành…

Dự thảo Luật này cũng kế thừa quy định về áp dụng can thiệp sớm tại Luật hiện hành và có sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập thời gian qua; bổ sung thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước tại giai đoạn can thiệp sớm; quy định một số biện pháp hiện nay đang áp dụng tại giai đoạn kiểm soát đặc biệt lên giai đoạn can thiệp sớm cho phép xử lý từ sớm, từ xa khi tình trạng yếu kém của tổ chức tín dụng chưa đến mức nghiêm trọng.

Thẩm tra nội dung này, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng việc can thiệp sớm theo quy định của dự thảo Luật thực chất là xử lý TCTD đã lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí đứng trước nguy cơ đổ vỡ.

Theo quy định hiện hành, tùy theo mức độ của từng TCTD, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp như khuyến nghị, cảnh báo, giám sát tăng cường, can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, hồ sơ dự án luật chưa đánh giá thực trạng thực hiện giám sát tăng cường, những khó khăn, bất cập khi thực hiện biện pháp này để đề xuất đưa vào dự thảo luật.

Hồ sơ dự thảo luật cũng chưa đánh giá, làm rõ được sự tương quan giữa các biện pháp từ giám sát tăng cường đến can thiệp sớm và kiểm soát đặc biệt dẫn đến không làm rõ được bản chất của việc "can thiệp sớm" để có những biện pháp, công cụ tương ứng phù hợp.

Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát, quy định các trường hợp cần áp dụng can thiệp sớm phù hợp hơn, theo hướng luật hóa những trường hợp thực hiện giám sát tăng cường mà đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả trong thực tiễn để thể hiện đúng bản chất của việc "can thiệp sớm", không chuyển các trường hợp kiểm soát đặc biệt thành trường hợp can thiệp sớm.

Bên cạnh đó, đề nghị làm rõ TCTD bị rút tiền hàng loạt đến mức độ nào thì cần phải có sự can thiệp của NHNN để bảo đảm sự minh bạch cũng như cân đối kịp thời nguồn lực.

Theo ông Vũ Hồng Thanh - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, các biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt là quy định mới so với Luật hiện hành. Quy định này là cần thiết và tạo tính chủ động để bảo đảm an toàn hệ thống, nhất là trong bối cảnh xảy ra một số trường hợp ngân hàng bị rút tiền hàng loạt như thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, các biện pháp nêu tại Điều 148 của dự thảo Luật chỉ bao gồm các biện pháp hỗ trợ từ “bên ngoài” (chủ yếu từ Ngân hàng Nhà nước) mà chưa có những biện pháp “tự thân” của tổ chức tín dụng để nhanh chóng khắc phục tình trạng rút tiền hàng loạt.

Có ý kiến đề nghị làm rõ mối liên hệ, sự tương quan giữa biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt (Điều 148) với các biện pháp can thiệp sớm (Điều 145) vì trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt là một trong các trường hợp áp dụng biện pháp can thiệp sớm nhưng hiện đang quy định 2 biện pháp riêng.

Ủy ban Kinh tế thấy rằng, sự cố rút tiền hàng loạt đòi hỏi phải xử lý khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, khác với các trường hợp tổ chức tín dụng yếu kém qua theo dõi phải được can thiệp. Do vậy, đề nghị rà soát lại các quy định có liên quan đến các biện pháp can thiệp sớm và biện pháp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt; nghiên cứu quy định cụ thể hơn các biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt, bao gồm các biện pháp từ chính tổ chức tín dụng và từ phía Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước; bảo đảm rõ vai trò, trách nhiệm của các bên cũng như các biện pháp hiệu quả, phù hợp.

Hà Ly (t/h)